|
BỐ CỤC BÀI
A.DẪN NHẬP.............................................................................................
I.Khái quát về tác phẩm Hồng lâu mộng..................................................
II.Khái niệm “ý dâm”................................................................................
B.Ý DÂM TRONG “HỒNG LÂU MỘNG”.............................................
I.Ý dâm – cái nghiệp tình ái đau thương của Giả Bảo Ngọc...................
1.“Ý dâm” đối với Giả Bảo Ngọc như là
một thứ định mệnh.............
2.Ba mối tình lớn trong cuộc đời Giả
Bảo Ngọc.................................
a)Mối
tình Giả Bảo Ngọc – Lâm Đại Ngọc......................................
b)Mối
tình Giả Bảo Ngọc – Tiết Bảo Thoa......................................
c)Mối
tình Giả Bảo Ngọc – Tập Nhân.............................................
d)So
sánh ba mối tình......................................................................
3.Từ si đến ngộ– sự giải thoát và ý
nghĩa của “ý dâm”......................
II.“Ý dâm”: Phản đề với xã hội phong kiến.............................................
C.KẾT LUẬN.............................................................................................
Phụ lục: Tài liệu tham khảo
A. DẪN NHẬP
I.
Khái quát về tác phẩm Hồng lâu mộng
Hồng lâu mộng (
Giấc mộng lầu son) còn có tên là Thạch đầu ký ( Câu chuyện hòn đá), Kim lăng thập nhị kim thoa ( Mười hai chiếc thoa vàng đất Kim Lăng)
là một bộ tiểu thuyết hiện thực vĩ đại, xuất hiện vào đời Kiền Long nhà Thanh(
cuối thế kỷ XVIII ). Đó là tác phẩm có ý nghĩa cắm mốc một giai đoạn văn học vì
dung lượng đồ sộ, vì sự thành thục trong phương pháp sáng
tác, vì âm vang của sự chuyển
mình lịch sử mà nó mang đến cho người đọc. Bộ truyện 120 hồi này do hai tác giả
sáng tác, Tào Tuyết Cần viết 80 hồi đầu và dự thảo 40 hồi sau, Cao Ngạc viết 40
hồi sau dựa theo dự thảo và hoàn chỉnh bộ truyện. Cả hai đều xuất thân quý tộc,
đều là người Hán nhập tịch Mãn Châu, nhưng Tào sống cuộc đời nghèo túng, cô độc
và bất đắc chí, còn Cao thì đỗ tiến sĩ, làm quan con đường công danh rộng mở.
Hoàn cảnh khác nhau đó làm cho hai phần tác phẩm tuy về cơ bản không có dấu vết
chắp vá nhưng khuynh hướng tư tưởng có khác. Cao Ngạc để nhân vật chính đi thi,
đỗ đạt và cưới vợ, có con trai nối dõi tông đường, sau đó mới đi tu chứ không
như dự thảo của Tào Tuyết Cần là bỏ đi mất tích sau tình yêu tan vỡ. Cao Ngạc
cũng để gia đình họ Giả được minh oan, được phục chức, cố gắng tô điểm cho bức
tranh xế chiều của hai phủ Ninh, Vinh một màu sắc tươi sáng. Sự thay đổi này thể
hiện sự kỳ vọng của họ Cao đối với một gia đình gia môn vọng tộc, biểu lộ ý muốn đẩy lùi kết thúc bi kịch đang ám ảnh
những đứa con trung thành của chế độ. Mặc dù vậy, xét về đề tài, tư tưởng, chủ
đề, phong cách hành văn… Hồng lâu mộng vẫn là một tác phẩm thống nhất và
hoàn chỉnh.
Hồng lâu mộng là sự thể hiện những tư tưởng của thời đại: tinh thần dân
chủ, tinh thần phê phán đời sống xã hội phong kiến mục nát, phê phán những giáo
điều cổ hủ đã ăn sâu bén rễ hàng ngàn năm, đòi tự do yêu đương và mưu cầu hạnh
phúc, giải phóng cá tính, khao khát tự do bình đẳng, lý tưởng cho cuộc sống...
Tất cả những cái đó có mặt kế thừa tư tưởng dân chủ thời Minh và
đầu thời Thanh, nhưng đó chính là sản phẩm của ý thức tư tưởng thị dân
đương thời.
Hồng lâu mộng viết về câu chuyện
tính duyên trắc trở nhưng không đơn giản là bi kịch tình yêu tay ba. Tác giả có
căn cứ vào cuộc đời riêng nhưng tác phẩm
không phải là “ tự truyện” , càng không phải là sự sụp đổ của một gia đình quý tộc do “ miệng ăn núi lở”, của “ thu ít chi nhiều”.
Ý nghĩa khách quan của tác phẩm lớn hơn nhiều,âm vang sâu nặng của tác phẩm gợi
cho người đọc về những vấn đề thời đại. Đọc
“ Hồng lầu mộng” chúng ta càng
hiểu thêm về ý kiến của Ăngghen , ông đã cho rằng, dâm ô là bản chất của giai cấp
bốc lột. Cả một bọn người sung sướng đến phát phì, nhàn rỗi đến lúc ngứa tay,
ngứa chân. Chúng không còn tìm thấy niềm khoái lạc nào hơn chuyện chim chuột,
dâm ô. Cái gọi là trung hiếu, tiết, nghĩa đầy rẫy trên các bức tường, bức liễn
trong nhà Giã phủ là tấm màn thưa che đậy cuộc sống nhơ nhớp, hủ bại được dung
túng. Nhưng hơn thế nữa, tác phẩm Hồng
lâu mộng không chỉ phanh phui những
những cái dâm ô đáng ghê tởm của xã hội bấy giờ, bên cạnh đó, tác giả thấy được
những nét đẹp còn lưu lại trong hình ảnh của những co người bấy giờ. Họ vẫn có
những khát khao yêu thương, cũng có quyền mưu cầu hạnh phúc chân chính cho
chính bản thân mình. Họ biết yêu thương, trân trọng những người bên cạnh. Để hiểu
rõ hơn về điều đó, hôm nay nhóm chúng tôi xin đi vào tìm hiểu đề tài “ ý
dâm trong Hồng lâu mộng” để làm rõ luận điểm trong Hồng
lâu mộng không chỉ có những cái dâm
đời thường, phàm tục, ham muốn
xác thịt để thõa mãn dục vọng của
mình mà còn có những “cái dâm” tượng trưng cho tình yêu cao đẹp,
trong sáng, một tình yêu cao thương, nồng cháy . Và ý dâm ở đây được hiểu là nghiệp si tình của nhân vật trong tiểu
thuyết cổ điển “ Hồng lâu mộng ” của
tác giả Tào Tuyết Cần .
“Dâm tuy một lẽ, nhưng có ý khác. Ví như kẻ thích dâm ở đời,
chẳng qua là ưa thích nhan sắc, ưa hát múa, cười cợt không chán, mây mưa không
kể ngày giờ, luôn luôn tiếc không đủ gái đẹp trên đời để thỏa cái hứng thú chốc
lát của mình, những người như thế chỉ là vật ngu xuẩn, lạm dụng cái dâm ngoài
da mà thôi. Còn như công tử, phận trời sinh ra đã sẵn một nghiệp si tình, bọn
tôi cho là ý dâm. Duy hai chữ "ý dâm", chỉ có thể lấy tâm mà lĩnh hội,
chứ không thể bảo lấy miệng cho nhau được, chỉ có thể lấy tinh thần mà thông cả
chứ khôn thể công tư có riêng hai chữ đó"
Cốt truyện của Hồng
lâu mộng
Hồng lâu mộng xoay quanh câu
chuyện tình duyên trắc trở giữa hai anh em con cô con cậu Giả Bảo Ngọc và Lâm
Đại Ngọc, từ đó mô tả cuộc sống nhiều mặt của một đại gia đình quý tộc đời
Thanh từ lúc cực thịnh cho đến lúc suy vi trong vòng tám năm.
Tiểu thuyết mở đầu bằng một
huyền thoại: Nữ Oa luyện đá ngũ sắc vá trời, luyện được năm vạn lẻ một viên.
Viên linh thạch còn thừa được đưa về trời chăm sóc cây tiên Giáng Châu. Thần
Anh và Giáng Châu duyên nợ, chịu ơn nhau nên phải đầu thai xuống hạ giới để
"lấy hết nước mắt của đời ta để trả lại cho chàng". Từ đó dẫn ra bao
nhiêu oan gia phong lưu đều phải xuống trần để trả duyên nợ, sinh ra bao nhiêu
chuyện sau này.
Đá thiêng hóa thành Giả Bảo
Ngọc. Cây thiêng hóa thành Lâm Đại Ngọc. Gia đình họ Giả vốn có nhiều công lao
với triều đình, số lượng kẻ hầu người hạ có lúc lên tới 448 người, sống trong
hai tòa dinh cơ tráng lệ bậc nhất Kinh thành. Ninh Quốc công và Vinh Quốc công
là hai anh em ruột. Ninh Công là trưởng, sau khi mất con lớn là Giả Đại Hóa tập
tước. Con cả Giả Phụ mất sớm, con thứ Giả Kính tập tước. Giả Kính chỉ say mê tu
tiên luyện đan nên nhường cho con lớn Giả Trân tập tước, con gái thứ là Giả
Tích Xuân được đem sang ở trong phủ Vinh Quốc. Giả Trân (vợ Vưu Thị) có một đứa
con trai là Giả Dung (vợ là Tần Khả Khanh), hai cha con chẳng chịu học hành,
chỉ lo chơi bời cho thỏa thích, đảo lộn cả cơ nghiệp phủ Ninh. Còn phủ Vinh,
sau khi Ninh Công chết, con trưởng là Giả Đại Thiện tập tước. Sau khi mất, Vợ
Thiện là Giả mẫu (họ Sử) trở thành người cầm cân nảy mực của gia đình. Giả mẫu
có ba con, con trưởng là Giả Xá (vợ là Hình phu nhân) được tập tước. Xá có con
trai là Giả Liễn (vợ là Vương Hy Phượng) và con gái (con nàng hầu) là Giả
Nghênh Xuân. Em của Xá là Giả Chính (có vợ là Vương phu nhân) được Hoàng thượng
đặc cách phong tước. Giả Chính có ba người con, con lớn Giả Châu (vợ là Lý
Hoàn) mất sớm, để lại một con trai là Giả Lan; con gái thứ Nguyên Xuân tiến
cung làm phi tử ; Giả Bảo Ngọc là cậu ấm hai, sinh ra đã ngậm một viên
"Thông linh Bảo Ngọc", là niềm hi vọng của gia đình họ Giả. Ngoài ra
còn có Giả Thám Xuân và Giả Hoàn là con của nàng hầu Triệu Di Nương. Giả Chính
và Giả Xá còn có một em gái tên Giả Mẫn, lấy chồng là Lâm Như Hải người Cô Tô,
làm quan Diêm chính thành Duy Dương, có một cô con gái tên Lâm Đại Ngọc. Bố mẹ
mất sớm, Lâm Đại Ngọc được Giả mẫu đem về nuôi trong phủ Vinh Quốc.
Trong Vinh quốc phủ còn có
gia đình của Tiết phu nhân, vốn là em gái Vương phu nhân, cùng con trai cả Tiết
Bàn và con gái Tiết Bảo Thoa vừa vào Kinh cùng đến ở.
Vì con gái của Giả Chính là
Nguyên Xuân được vua phong là Nguyên phi nên để mỗi lần về tỉnh thân, phủ Vinh
quốc cho xây dựng vườn Đại quan cực kì tráng lệ. Khu vườn Đại quan này chỉ dành
cho 12 tiểu thư xinh đẹp của hai phủ Vinh và phủ Ninh lui tới vui chơi. Giả Bảo
Ngọc là cậu ấm duy nhất được lui tới và tìm được người tâm đầu ý hợp là Lâm Đại
Ngọc. Nhưng mọi người trong gia đình không muốn cuộc hôn nhân này diễn ra. Lâm
Đại Ngọc là người con gái dung mạo tuyệt sắc, là một tâm hồn thi phú đích thực
nhưng vô cùng nhạy cảm và mảnh mai, lại cám cảnh ăn nhờ ở đậu nên tính tình
càng thêm sầu bi, cô độc. Cho nên nàng thương hoa, khóc hoa, chôn hoa, tâm hồn
nàng như một sợi tơ đàn mảnh mai, bất kể một giọt mưa thu hay tơ liễu bay đều
âm vang một điều bi thương đứt ruột. Nàng cho rằng Giả Bảo Ngọc không cần thi
cử, làm quan; lánh xa công danh phú quý. Trong khi đó, Tiết Bảo Thoa, người con
gái đài các, sắc sảo, đức hạnh theo đúng khuôn phép chuẩn mực phong kiến lại
luôn khuyến khích Bảo Ngọc học hành đỗ đạt để lọt vào tầm ngắm của các bậc
huynh trưởng trong dòng họ. Lúc đầu, Giả Bảo Ngọc còn phân vân trước tình yêu
của Tiết Bảo Thoa, "gần cô chị thì quên khuấy cô em"; song dần dần,
nhận thấy Tiết Bảo Thoa chỉ mong ngóng cái danh "lập thân", nên Giả
Bảo Ngọc đã dành trái tim mình cho Lâm Đại Ngọc, mong muốn lấy nàng làm vợ. Gia
đình họ Giả coi đó là một tai họa.
Trong lúc thế lực của hai
phủ họ Giả bị lung lay do mắc tội với triều đình, cả hai phủ đều bị phân li, kẻ
chết người đi đày, trong một cố gắng cuối cùng nhằm cứu vãn gia tộc, Phượng Thư
(chị dâu của Bảo Ngọc) đã đặt kế tráo hôn. Khi mở khăn che mặt cô dâu thấy
không phải Lâm Đại Ngọc, Giả Bảo Ngọc bỏ đi, về sau hóa thành đá. Lâm Đại Ngọc
nghe tiếng pháo đám cưới của Giả Bảo Ngọc, uất ức phát bệnh, ho ra máu mà chết.
Kết thúc pho truyện là một khúc nhạc ai oán cho cuộc sống vương giả như mây tan
bèo dạt, như một "giấc mộng trong lầu son" như một sự chiêm nghiệm về
lẽ đời của họ Tào. Cũng có một kết thúc khác là Giả Bảo Ngọc chấp nhận sống với
Tiết Bảo Thoa, sinh được con trai nối dõi, chăm chỉ học hành thi đỗ cử nhân rồi
xuất gia nhưng cái kết này không được độc giả yêu thích, cũng có thuyết cho là
của người sau thêm vào.
I.
Khái niệm “ý dâm”.
Trong tác phẩm “Hồng lâu mộng”, hồi V, khi Giả Bảo Ngọc gặp tiên Cảnh Ảo,
Cảnh Ảo đã đưa ra khái niệm về “ý dâm”:
“Dâm tuy một lẽ, nhưng có ý
khác. Ví như kẻ thích dâm ở đời, chẳng qua là ưa thích nhan sắc, ưa hát múa, cười
cợt không chán, mây mưa không kể ngày giờ, luôn luôn tiếc không đủ gái đẹp trên
đời để thỏa cái hứng thú chốc lát của mình, những người như thế chỉ là vật ngu
xuẩn, lạm dụng cái dâm ngoài da mà thôi. Còn như công tử, phận trời sinh ra đã
sẵn một nghiệp si tình, bọn tôi cho là ý
dâm. Duy hai chữ "ý dâm",
chỉ có thể lấy tâm mà lĩnh hội, chứ không thể bảo lấy miệng cho nhau được, chỉ
có thể lấy tinh thần mà thông cả chứ khôn thể công tư có riêng hai chữ đó"
Như vậy, ở đây ý dâm được hiểu là nghiệp si tình của
Giả Bảo Ngọc, nó trái ngược hoàn toàn với cái “dâm ngoài da”, là cái nhục dục tầm
thường của người đương thời. Trong phạm vi bài tiểu luận này, nhóm sẽ triển
khai “ý dâm” của Giả Bảo Ngọc theo 2 hướng:
Thứ nhất, khái niệm “ý dâm” được đưa ra trong
bối cảnh Giả Bảo Ngọc lên chốn bồng lai cảnh ảo để giác ngộ về “si”, thông qua
lời hát có ý cảnh tỉnh của các tiên nữ để từ bỏ nghiệp ái tình, nhưng vẫn không
thoát được, lại lối ở cõi Mê. Như vậy, “ý dâm” chính là một thứ “nghiệp” theo
triết lý nhà Phật. “Nghiệp” bắt đầu từ si, vì si nên sinh ra đau khổ, ở đây Giả
Bảo Ngọc phải trái qua hết cái nghiệp đó, đi đến tận cùng đau đớn, thì mới có
thể giải thoát. Tư tưởng của tác giả về ái tình cũng được thể hiện rõ.
Thứ hai, “ý dâm” được đặt trong thế đối lập với
“dâm”, “ý dâm” chỉ riêng Giả Bảo Ngọc có. Cái dâm tầm thường thì gặp được ở rất
nhiều nhân vật nam khác như Giả Thụy, Giả Liễn – những gương mặt tiêu biểu
cho tầng lớp quan lại phong kiến đương
thời, là sản phẩm sản sinh từ một xã hội phong kiến đang đến hồi suy tàn. Như vậy
ở đây, “ý dâm” trở thành một phản đề với những giá trị phong kiến đương thời, vạch
mặt những xấu xa, hủ bại, tha hóa; đồng thời đề cao khát vọng tự do yêu đương,
tình thần dân chủ.
B.
Ý
DÂM TRONG “HỒNG LÂU MỘNG”
I.
Ý dâm – cái nghiệp tình ái đau thương
của Giả Bảo Ngọc.
1. “Ý dâm” đối với Giả Bảo Ngọc như là một
thứ định mệnh
Theo lời tiên Cảnh Ảo ở cõi cảnh ảo, thì “ý dâm” chính
là duyên nghiệp của Giả Bảo Ngọc. “Ý dâm” rất khác với “dâm”. Nếu “dâm” chỉ là
cái ham muốn xác thịt tầm thường thì “ý dâm” của Giả Bảo Ngọc còn có cái tình
trong đó. Nặng tình, thì tình hóa thành nghiệp, mang đau thương cho bản thân và
cho biết bao người. Cái nghiệp tình của Giả Bảo Ngọc, hay nói cách khác, “ý
dâm” của Giả Bảo Ngọc, giống như một thứ định mệnh đã được dự báo từ rất sớm.
Ở hồi 1, khi còn là hòn đá vá trời do Nữ Oa luyện
thành, dòng thơ nhà sư khắc lên tảng đá trời cho đã báo hiệu một nghiệp duyên
tình:
“Không có tài lên vá trời xanh
Uông sinh vào đời bằng ấy độ
Sự việc trải kiếp trước kiếp sau
Mong ai chép lấy làm chuyện lạ.
Uông sinh vào đời bằng ấy độ
Sự việc trải kiếp trước kiếp sau
Mong ai chép lấy làm chuyện lạ.
Không Không Đạo nhân khi xem những dòng chữ trên hòn
đá, đã nhận xét: “Trong này, chẳng qua chỉ kể chuyện mấy cô gái, hoặc tình, hoặc
có chút tài nhỏ khéo vặt.”
Khi Giả Bảo Ngọc mới sinh ra, cha hắn là Giả Chính bày
biện trước mặt hắn rất nhiều món đồ, nhưng những gì hắn lấy chỉ có son và phấn,
khiến cha hắn rất tức giận.
Định mệnh ấy sớm hình thành ở Giả Bảo Ngọc một tính
cách đặc biệt: Ghét đàn ông, đặc biệt yêu thích nữ giới. Khi nhỏ hắn luôn tâm
niệm: “Xương thịt con gái là thứ làm bằng nước, xương thịt con trai là thứ làm
bằng bùn. Tôi trông thấy con gái thì thấy lòng khoan khoái, cứ trông thấy con
trai thì thấy tanh kinh người”.
“Ý dâm” quả thật đã tạo ra một Giả Bảo Ngọc với tính
cách rất khác thường, một “kẻ nổi loạn” giữa lòng xã hội phong kiến. Có lẽ lần
đầu tiên trong lịch sử xuất hiện một vị chủ tử
- thuộc dòng dõi cao quý, tầng lớp trên, lại chịu lép vế trước kể hầu
người hạ - vốn thuộc tầng lớp dưới.
Quan hệ chủ - tớ trong xã hội phong kiến có thể nói rằng
rất gay gắt, quy củ. Kẻ hầu người hạ nhất nhất phải tuân phục chủ nhân, có khi
chủ nhân muốn đánh, muốn phạt, cũng không được phản kháng. Ví như nàng Phượng
Thư trong cơn ghen mắng thằng người hầu biết chuyện chồng lấy vợ bé bên ngoài
mà không nói, còn dọa đánh gãy chân nó, mà nó cũng chỉ biết quỳ lạy khóc lóc
van xin, ta có thể hiểu mối quan hệ ấy khắc nghiệt đến thế nào.
Vậy mà chàng Giả Bảo Ngọc của chúng ta, trước người hầu
kẻ hạ thì cứ “chị chị - tôi tôi”, cười cười nói nói, để họ bỡn cợt, như lời nhận
xét của nhiều người, “chịu lép vế” trước họ. Có khi mắng người hầu, rồi lại dỗ
dành ngay, như lời của hắn nói với Tình Văn:
“Chị càng ngày càng làm
nũng. Sớm nay đánh rơi cái quạt, tôi nói vài câu, thế mà dám cãi lại những lời
như vậy. Chị nói tôi đã đành, chị Tập Nhân có bụng tốt đến can, chị nói tôi đã
đành, chị Tập Nhân có bụng tốt đến can, chị lại vặc luôn cả với chị ấy.”
Chính “ý dâm”, lòng trân quý phụ nữ khiến đôi khi
trong mắt mọi người Giả Bảo Ngọc có phần kì dị. Dì ba nhà họ Vưu kể về hắm khi
gặp trong một đám tang, cứ thấy hắn chắn đường các vị sư, ai cũng cho rằng hắn
không bình thường, nhưng kì thực hắn có cái lí của mình: sợ quần áo sư không sạch,
sẽ làm ô uế đến chị em.
Giữa lòng xã hội phong kiến Trung Quốc nam nhi phải
tam cương, ngũ thường, phải có công danh có chí lớn, thì Giả Bảo Ngọc quả là một
nhân vật lạ thường. Cái lạ thường điển hình cho chữ “kì”, đặc điểm thu hút lớn
của tiểu thuyết Minh Thanh. Tính cách của Giả Bảo Ngọc cũng có những điểm rất
tích cực. Trước hết đó là sự trân trọng người phụ nữ, sự trân trọng có khi là
thái quá, có khi là cực đoan, có khi là kì dị. Nhưng có sao, đó là sự yêu quý
thực lòng, nhất trong xã hội phong kiến địa vị của người phụ nữ không được đề
cao, đối với một bộ phận đàn ông họ chỉ là thứ đồ mua vui, thì tình cảm trân trọng
ấy càng đáng quý biết bao.
Nhưng tính cách đó cũng là một cái nghiệp. Nó báo trước
sẽ mang bất hạnh đến cho Giả Bảo Ngọc và những người con gái khác. Quả thật vậy,
những “bóng hồng” bước qua cuộc đời chàng công tử họ Giả không ít thì nhiều đều
có những bất hạnh riêng. Lâm Đại Ngọc trong mối tình với Giả Bảo Ngọc mà chết tức
tưởi. Bảo Thoa rơi vào bi kịch tình yêu dở dang. Ngay như cô hầu Kim Xuyến, chỉ
vì một chút trêu đùa của Giả Bảo Ngọc mà đến nỗi phải tự vẫn.
Một người yêu thương phụ nữ, trân quý phụ nữ, thậm chí
hạ mình để tà áo người con gái không bị bẩn, cũng chính con người ấy lại gây ra
đau thương cho biết bao người phụ nữ. Phải trăng là nghịch lý? Ta thấy ở đây thể
hiện tư tưởng về số mệnh. Tất cả mọi sự việc xảy ra đều nằm ngoài ý muốn của Giả
Bảo Ngọc. Hắn tất nhiên không muốn mang đến đau khổ cho bất kì ai, và chính bản
thân hắn, trước mỗi nỗi đau, trước mỗi cái chết cũng lãnh về mình những nỗi
đau, những giọt nước mắt. Ở đây, cái tình đã thành cái nghiệp. Ta có cảm tưởng
có một thế lực vô hình chi phối tất cả,
một sức mạnh siêu hình vô biên sắp đặt số phận cho từng nhân vật, đẩy họ vào những
nỗi đau. Tình càng sâu đậm, càng đau. Ham muốn càng mãnh liệt, số phận càng bất
hạnh.
Như vậy, ở đây, tình chính là nghiệp, nghiệp bắt đầu từ
si, từ dục. Si càng đậm, dục càng mạnh, thì con người ta càng đau khổ. Nó trở
thành một vòng luẩn quẩn, tuần hoàn, là bể khổ, là nỗi đau không bao giờ dứt. Như trong triết lý đạo Phật, “ý dâm” của Giả
Bảo Ngọc chính là một thứ duyên khởi, mà để vượt qua nó, con người phải trải đến
tận cùng nó để đau đớn đến tận cùng trong nó, để rồi từ sắc biến thành không,
con người mới có thể tìm thấy sự giải thoát đích thực.
2.
Ba mối tình lớn trong cuộc đời Giả Bảo Ngọc
a.
Mối tình Giả Bảo Ngọc – Lâm Đại Ngọc
Mở
đầu tác phẩm qua lời của Không Không Đại sư trong mộng ảo của Chân Sỉ Ẩn:
“Bên
bờ sông Linh Hà ở Tây phương, bên cạnh hòn đá Tam Sinh có một cây Giáng Châu
được Thần Anh làm chức chầu chực ở cung Xích Hà ngày ngày lấy nước cam lộ tưới
bón cho nó mới tươi tốt sống lâu. Đã hấp thụ tinh hoa của trời đất, lại được
nước cam lộ chăm bón, cây Giáng Châu thoát được hình cây, hóa thành hình người,
tu luyện thành người con gái, suốt ngày rong chơi ngoài cõi trời Ly Hận đói thì
ăn quả “Mật Thanh” khát thì uống nước bể “quán sầu”. Chỉ vì chưa trả được ơn
bón tưới, cho nên trong lòng nó vẫn mắc míu, khi nào cũng cảm thấy như còn
vương một mối tình gì đây. Gần đây, Thần Anh bị lửa trần rực cháy trong lòng,
nhân gặp trời đất thái bình thịnh vượng muốn xuống cõi trần để qua kiếp “ảo
duyên”, nên đã đến trước mặt vị tiên Cảnh ảo ghi sổ. Cảnh ảo liền hỏi đến mối
tình bón tưới, biết chưa trả xong, muốn nhân đó để kết liễu câu chuyện. Nàng
Giáng Châu nói: “Chàng ra ơn mưa móc mà ta không có nước để trả lại. Chàng đã
xuống trần làm người, ta cũng phải đi theo. Ta lấy hết nước mắt của đời ta để
trả lại chàng, như thế mới trang trải xong!”. Vì thế dẫn ra bao nhiêu oan gia
phong lưu đều phải xuống trần, để kết liễu án đó”.
Có thể thấy, mối tình cây-đá giữa Giả Bảo Ngọc
và Lâm Đại Ngọc xuyên suốt qua toàn bộ tác phẩm Hồng Lâu Mộng, làm nên chủ đề
chính của cuốn tiểu thuyết vĩ đại này.Ở họ có dường như có duyên nợ từ tiền
kiếp.Thật vậy,Nữ Oa luyện để vá trời
nhưng đã bỏ sót lại một tảng đá, tảng đá ấy gặp được các vị chân nhân, sau này
được đầu thai làm người, đó là cái duyên với trần thế. Tảng đá ấy được đưa đến
Cung Xích Hà, gặp cây tiên thảo, đó là duyên trời định giữa tảng đá Tam Sinh và
cây tiên thảo. Tảng đá hóa thành chàng Thần Anh hàng ngày tưới nước cam lộ cho
cây tiên thảo, giúp cây tiên thảo hấp thụ đủ tinh hoa của đất trời và biến
thành nàng Giáng Châu; rồi cả chàng trai và cô gái cùng muốn trần hóa kiếp làm
người, đó là nhân duyên do họ tự tạo nên.
Tảng đá sau này đầu thai làm Giả Bảo Ngọc,
còn cây tiên thảo là Lâm Đại Ngọc. Phải chăng cây tiên thảo có
"duyên" với tảng đá, nàng Giáng Châu có "duyên" với chàng
Thần Anh, còn giữa Đại Ngọc và Bảo Ngọc chẳng phải là có "duyên", mà
âu cũng chỉ là một chữ "nợ"? Nàng Giáng Châu biết chàng Thần Anh cũng
muốn xuống trần làm người nên đã nguyện hóa kiếp làm cô gái, lấy nước mắt để
trả ơn mưa móc của chàng trai, đó chính là trả món "nợ tình". Việc
đầu thai xuống trần của họ đã kéo theo bao chuyện phong lưu oan nghiệp, đó là
cái "nợ". Cuộc sống chốn trần gian của họ cũng chẳng được vui sướng
gì, cuối cùng cả hai đều phải chịu kết cục bi thảm, đó là bởi họ phải trả cái
"nợ đời", cái nợ với nhân gian. Đúng là Đại Ngọc và Bảo Ngọc "có
duyên tiền kiếp", còn ở kiếp này, cái kiếp người trong Giả phủ thì họ chỉ
có "nợ" mà thôi, một mối nợ oan nghiệt và đầy nước mắt.
Giả
Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc là hai anh em cô cậu ruột, cùng ở chung một nhà từ bé.
Lớn lên, vì Bảo Ngọc được bà nội nuông chiều, cho ở trong vườn Đại quan cùng
với đám “quần thoa”, nên anh ta và Đại Ngọc gần gũi nhau. Nhưng đây không phải
là câu chuyện “lửa gần rơm...”. Đây cũng không phải chỉ là câu chuyện “tài tử
giai nhân là nợ sẵn”. Tình yêu của họ còn có nguyên cớ sâu xa hơn nhiều.
Giả Bảo Ngọc
ngay từ đầu, khi chưa xuất hiện là đã đuợc nói đến với một tính cách khó hiểu,
tốt xấu lẫn lộn, không ai đoán đuợc. Đó là mâu thuẫn giữa khát vọng tự do và sự
ràng buộc nặng nề của gia đình và xã hội phong kiến. Một mặt , chàng là một người
yêu cái đẹp, trân trọng và giữ gìn cái đẹp. Chàng nâng niu chiều chuộng những
người con gái đẹp .Đó không phải là sự dâm dục mê muội tửu sắc, mà là sự trân
trọng, biết thưởng thức cái đẹp nơi chàng.Ta có thể dễ dàng nhận thấy cử chỉ ân
cần chăm sóc của chàng đối với Tình Văn khi cô bị bệnh : " Thế sao được ? Chị vừa mới đỡ mệt một tí, đã
làm việc sao được ?, " Bảo Ngọc ngồi bên cạnh, lúc hỏi có muốn uống nước
không? Lúc bảo hãy nghĩ một tí. Lúc lấy áo da khoác lên lưng hoặc lấy gối cho
cô ta dựa ..." ( HLM, Tập I, hồi 52) ; hay khi ân cần hỏi mượn Tập
Nhân cái quần đỏ thạch lựu mới cho Hương Lăng mặc tạm khi cô bị Đậu Quan kéo xuống
một vũng nước mưa, đồ hãy còn nước bẩn đương rỏ từng giọt :" Chị cứ đứng đây, đừng đi vội. Nếu không thì cả áo lót, quần đùi
và giày cũng dính bùn đấy.Tập Nhân có may một cái quần giống hệt như thế. Nhưng
vì chị ấy có tang, chưa mặc đến. Tôi sẽ lấy cho chị đổi, có được không" (
HLM, Tập II, hồi 62) ; cử chỉ lo lắng của chàng dành cho Đại Ngọc cũng nói
lên được điều đó...Bên cạnh đó, chàng có một cuộc sống phóng túng , không thích
học hành , không thích đeo đuổi công danh, suốt ngày chỉ thích chơi đùa cùng bọn
chị em trong vườn nghe hát uống rượu và mở thi xã.Cuộc sống đối với chàng như
thế là thích rồi.Nhưng mặt khác, chàng lại bị sự quản thúc kìm kẹp từ phía gia
đình họ Giả. Chàng bị quản thúc từ việc học, việc chơi, việc người hầu ...cho đến
đỉnh điểm là ngay cả tương lai , việc lấy vợ của chàng cũng được họ định đoạt.
Nếu như một người phóng túng khác, họ sẽ đứng lên , không chịu nhún nhường ,
nhưng ở đây, chàng cam chịu chấp nhận với tất cả những phẫn uất dồn nén trong
mình .Và những phẫn uất ấy cứ lớn dần theo tình tiết truyện cho đến khi chàng
tìm được sự giải thoát cho mình.
Đại Ngọc vì gia cảnh đến ở nhờ trong
phủ họ Giả, tuy là cháu ngoại đấy, nhưng vẫn bị Giá mẫu xem là “người ngoài”:
“nữ nhân ngoại tộc”. Cái mặc cảm “ăn bám ở nhờ” luôn luôn làm nàng đau khổ -
nàng vốn là người nhiều tự ái là người nhạy cảm, khó hòa hợp với chung quanh và
do đó cô đơn. Lâm Đại Ngọc là một nguời hay xét nét, để bụng nhưng bản
chất cô lại là một nguời tốt. Đây không phải là kiểu nữ nhân vật chính lúc nào
quan tâm, chăm sóc cho mọi nguời, lúc nào đặt lợi ích của nguời khác lên trên
bản thân mình giống như hình tuợng các nhân vật nữ chính trong các tác phẩm khác.Ngược lại, Đại Ngọc luôn để ý,
xét nét từng cử chỉ , nét mặt, điệu bộ , giọng nói của người xung quanh. Vú Lý
khi nghe nàng nói cũng phải vừa buồn cười vừa nói :" Những lời nói của cô Lâm thật là sắc hơn lưỡi dao."
Còn " Bảo Thoa cũng nhịn không nổi ,
béo má Đại Ngọc một cái, cười nói: Thật đấy, Chỉ cô Tần này hễ mở mồm ra là làm
cho người ta giận không giận được, mà vui cũng chẳng thành vui." ( HLM,
tập I, hồi 8). Cô còn là một người tự ti đa sầu đa cảm ; nhìn sự việc của
người khác , nhìn những thứ người ta có mà mình không có thì lại buồn tủi, giận
hờn , khóc lóc. Ta có thể thấy điều đó khi Nguyên phi ban thưởng quà cho nhà họ
Giả, trong số các chị em chỉ có Bảo Ngọc và Bảo Thoa có số quà tặng giống nhau
và nhiều hơn những chị em khác, biết điều đó và biết rõ tính tình của Đại Ngọc
, Bảo Ngọc chia bớt phần quà của mình cho Đại Ngoc thì bị cô nói cạnh khóe , tỏ
ý không cần nhưng thực ra nàng rất khó chịu , tủi thân.
Lâm Đại Ngọc
là một nguời hay xét nét, để bụng nhưng bản chất cô lại là một nguời tốt. Cô
không chú ý , quan tâm đến suy nghĩ của người khác để điều chỉnh lời nói của
mình, cô cứ nói những lời thật lòng mình, những gì mình nghĩ mà không hề để ý
xem lời nói cử chỉ đó có làm người khác phật lòng hay không, người khác có vui
không . Cho thấy nàng là một người thật thà, nghĩ gì nói đó, không có toan tính
trong bụng.
Nàng
yêu Bảo Ngọc, nhưng do thân phận của nàng, mỗi khi Bảo Ngọc ngỏ lời là nàng lại
giận hờn, buồn tủi, làm ra vẻ cự tuyệt...
“Bảo Ngọc cười nói:
- Tôi
là người nhiều sầu, nhiều bệnh, cô là trang nghiêng nước nghiêng thành.
Đại Ngọc nghe thấy câu ấy, mặt và tai đỏ
bừng lên, lập tức dựng ngược lông mày, như cau lại mà không phải là cau, trố
hai con mắt, như trợn mà không phải trợn. Má đào nổi giận, mặt phấn ngậm hờn,
trỏ vào mặt Bảo Ngọc:
- Anh nói bậy, muốn chết đấy! Dám đem những
lời lẳng lơ suồng sã lăng nhăng để khinh nhờn tôi! Tôi về mách cậu mợ đấy”.
(tập I)
Điều đó
làm cho nàng trở nên đáng yêu và tội nghiệp, làm cho nàng trở nên nhiều nữ tính
hơn. Không một nét giả dối, nàng là một nhân vật đã hiện ra với chiều sâu tâm
lý đa dạng, được bộc lộ qua tình yêu, qua những quan hệ khác. Phút cuối cùng
nàng nghe nói Bảo Ngọc sắp lấy vợ, và người được chọn sẽ là người trong phủ,
nàng chắc người đó sẽ là mình, chứa chan hy vọng, và từ đau buồn tuyệt vọng,
trong ốm đau, nàng trở lại sống linh hoạt, tươi đẹp... Ai hay đó là phút nàng ở
gần sự kết thúc nhất. Sự mâu thuẫn trong nàng không những không làm cho độc giả
ghét mà ngược lại, càng làm cho nàng thêm đáng yêu, tội nghiệp.
Cặp
đôi này giống nhau về sở thích. Giả Bảo Ngọc ghét con trai, chỉ thích suốt ngày
ở bên các chị em để nói chuyện, chơi đùa bởi chàng phát hiện ra tâm hồn cao đẹp
của người con gái. Lâm Đại Ngọc thì xem đàn ông là bọn trai thối “xú nam nhân”
trừ Bảo Ngọc ra nàng khinh tất cả những đồ vật mà bọn con trai đã chạm đến. Một
lần, Bắc Tĩnh Vương cho Bảo Ngọc dây thắt
lưng, Bảo Ngọc đưa cho Đại Ngọc và nàng ném đi biểu thị cương quyết bảo vệ sự
trong trắng của phái nữ .
Cả
hai đều là người có tâm hồn giàu tình cảm, cảm thông với số phận hẩm hiu của
Kim Xuyến, Tình Văn, Vu Như Thị, Tần Khả Khanh…Sống với a hoàn nhưng xem họ là
bạn đùa nghịch, lo lắng, chăm sóc nhau. Tác giả miêu tả tâm hồn họ đa cảm đến
mức ba lần miêu tả cảnh hai nhân vật này chôn hoa. Đại Ngọc chôn hoa và làm
thơ, khóc cho hoa cũng là khóc cho đời và cho mình:
Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ
Sau này ta chết ai là người chôn
Họ
đều tìm kiếm tình yêu tự do không bị ràng buộc “ cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”.
Tình yêu của đôi Song Ngọc không phải là
tình yêu kiểu tài tử, giai nhân, họ yêu nhau trước hết là do sự cảm thông, gần
gũi và chân thành. Họ chỉ làm theo tiếng gọi của trái tim, không tin vào “ kim
ngọc lương duyên” ghét cái gọi là đá
vàng hay kỳ lân…Họ yêu nhau, hờn giận và quan tâm nhau. Lâm Đại Ngọc bệnh mà
chết vì yêu, Giả Bảo Ngọc điên loạn ngốc nghếch cũng vì không đi được đến đích
của tình yêu.
Giả
Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc còn có sự thống nhất về lý tưởng. Giả Bảo Ngọc không
thích học tập chữ nghĩa thánh hiền, trốn học, xem thường những con mọt sách,
mọt công danh, đã có lần chàng nói với Đại Ngọc “ Cô còn nhắc đến việc đi
học làm gì, tôi ghét cái trò đạo học ấy rồi. Buồn cười nhất là thứ văn bút cổ,
người ta dung nó để lừa bịp, bòn chút công danh, kiếm miếng cơm ăn, nói thế còn
được, Bây giờ lại bảo thay lời thánh hiền cơ. Nhiều lắm cũng chỉ đem kinh
truyện ra nhồi nhét vào đầu thôi. Buồn cười hơn nữa là thật ra có kẻ trong bụng
rỗng tuếch, chỉ vơ chỗ nọ, bỏ chỗ kia, làm lếu láo thế mà lại cho mình học sâu
rộng, làm thế đâu phải là phát triển đạo lý của thánh hiền! Bây giờ cha tôi
nhất thiết bảo tôi học cái ấy, tôi đã không dám cãi thế mà cô còn nhắc chuyện
đi học à”.Lâm Đại Ngọc thật ra cũng rất khinh con đường học tập thi cử ấy,
nàng không một lần khuyên Bảo Ngọc học hành để lập công danh. Đã có lần nàng
nghe Bảo Ngọc nói với Tập Nhân và Sử Tương Vân “ Cô Lâm có bao giờ nói câu
nhảm nhí ấy đâu nếu có nói ta đã rời xa cô ấy lâu rồi”, nàng biết mình đã
không chọn nhầm người. Như vậy, trong
khi cả nhà chờ mong Bảo Ngọc học giỏi thi đỗ, làm quan giữ nếp nhà…, thì Bảo
Ngọc lại chán ngấy cái con đường mòn nhàm chán đó, và người hiểu anh duy nhất
là Đại Ngọc. Có lẽ chính vì những điều đó mà họ yêu nhau
mặc dù giữa họ còn có Tiết Bảo Thoa, hơn hẳn Đại Ngọc về mặt gia thế công dung
ngôn hạnh.
Giống
nhau dường ấy nhưng họ lại có những điểm khác biệt nhau. Giả Bảo Ngọc là bảo
bối của Giả phủ rất được chiều chuộng, tất cả mọi người trong nhà đều yêu
thương, quen biết nhiều, có nhiều
bạn, được thực hiện những sở thích nhỏ,
chơi bời như một công tử tự do. Nhưng Lâm Đại Ngọc lại khác, nàng chỉ thích
ngồi một mình, lặng lẽ, không thích tụ họp, vui vây, nàng nói: “Người ta có
lúc hợp thì phải có lúc tan, lúc hợp thì vu, lúc tan tránh sao khỏi buồn? Đã
buồn sẽ đâm ra nhớ, chi bằng không hợp thì hơn…” Đối lập với Bảo Ngọc chỉ
muốn “ người ta hợp mà đừng tan, hoa thường nở mà đừng tàn, khi tiệc hoa tàn
dù có thương tiếc muôn phần cũng không thể níu lại.” Ngoài ra nếu Bảo Ngoc
sống trong cảnh sum vầy bên đại gia đình thì Đại Ngọc thật đáng thương, mồ côi
mẹ từ rất sớm, không chị em, cha bận việc quan nàng đến sống ở Giả phủ với thân
phận ở nhờ côi cút, khi mất cha nàng chi biết nương nhờ bên ngoại thế nên nàng
luôn mặc cảm về thân phận mình, khiến cho nàng thường hoài nghi, kiêu kỳ cô độc
không cảm thấy thoải mái.
Lâm
Đại Ngọc và Giả Bảo Ngọc có rất nhiều điếm giống nhau, khi nhắc đến Lâm Đại
Ngọc thì người đọc nhớ ngay đến Giả Bảo Ngọc và ngược lại nhưng mỗi người lại
có một ranh giới khác biệt về tính cách đó là cái giống mà khác, cái khác trong
cái giống.
Chính
vì thế mà cho dù Bảo Ngọc sống giữa đám
a hoàn nhan sắc, những Tập Nhân, Tình Văn... những người này là những phụ nữ
xuất thân từ tầng lớp dưới, được họ Giả mua về hầu hạ, nhưng đó là những người
có tình, có phẩm chất tốt đẹp. Họ chính là mót bức màn ngăn bụi trần của phủ
Vinh quốc đầy dẫy những hạng đàn ông ô trọc. Bảo Ngọc cảm nhận được thực chất
vị tha, quên mình đầy dịu dàng của họ, anh ta như một người được vây bọc bởi sự
tận tụy, thương yêu... của những nữ tỳ - đồng thời cũng là “nữ thần” này. Do đó
không lạ gì mà Bảo Ngọc đã nêu lên cái “nguyên lý nữ tính” rất xa lạ với tư
tưởng “trọng nam khinh nữ” của xã hội phong kiến: “Xương thịt con gái là nước
kết thành. Tôi trông thấy con gái thì người tôi nhẹ nhàng, khoan khoái, thấy
con trai thì như bị phải hơi dơ bấn”. Bảo Ngọc cũng mến Bảo Thoa, gần nàng,
anh chàng đôi lúc cũng thấy xiêu xiêu, quả có như lời Lâm Đại Ngọc “gần cô
chị thì quên khuấy cô em”! Nhưng, Bảo Ngọc chỉ yêu có Đại Ngọc thôi. Đại
Ngọc kiều diễm, yếu đuối, là một tâm hồn dễ cảm xúc, một tâm hồn nhạy cảm và
phong phú - đó là một tâm hồn thơ đích thực; và đó là điều mà họ gặp nhau.
Tuy nhiên,trong tình yêu
này, họ chưa được hưởng bao nhiêu hạnh phúc, chưa nếm mật ngọt tình yêu, họ đã
linh cảm thấy mật đắng của đời! Họ luôn luôn bị bủa vây trong trùng điệp của
mạng lưới phong kiến. Họ không phải là người quyết định được tình yêu của mình.
Mối tình Bảo Ngọc- Đại Ngọc không được phép biểu hiện tự do bởi nó
là trái với “luân thường đạo lý”. Tiêu chuẩn đạo đức phong kiến không
chấp nhận chữ “dâm”, không chấp nhận ái tình nam nữ.Cuối cùng, Giả mẫu
và bọn phu nhân trong phủ họ Giả đã quyết định! Họ đã chọn Tiết Bảo Thoa cho
Bảo Ngọc. Và một khi đã chọn, họ đã nhẫn tâm theo kế “đánh tráo” của Phượng
Thư. Bảo Ngọc cứ yên trí là “cưới em Lâm”, hóa ra lúc giở khăn che mặt, lại là
Bảo Thoa; Bảo Ngọc lúc bấy giờ mới bật ngửa, mà Lâm Đại Ngọc thì sau cơn ốm
nặng, đã chết trong niềm đau đớn, oán hận bằng đốt thơ, đốt khăn tặng trong lúc
cả nhà mừng đám cuởí của người mình yêu! Kết thúc tấn bi kịch này, Bảo Ngọc
trốn nhà đi tu; và Bảo Thoa làm một người góa phụ trẻ đau khổ.
Mối tình cây-đá, một hồi kết bi thương cho
chuyện tình trót sinh ra trong thời đại phong kiến. Xen lẫn với bi thương, u
uất là những hạnh phúc mơ mộng, nhỏ nhoi của người con gái mang mệnh cây. Giả
mẫu và Vương phu nhân dẫu biết tâm tình Bảo Ngọc- Đại Ngọc, song không
chấp nhận tác hợp cho họ, bởi tình yêu trong quan điểm của giai cấp
phong kiến không có chút nghĩa lý gì. Họ không chọn Đại Ngọc làm
dâu, mà chọn Bảo Thoa vì nghĩ đến lợi ích của gia đình chứ không phải
vì hạnh phúc lứa đôi. Chính cuộc hôn nhân được sắp xếp đó đã gây nên
cái chết đau đớn của Đại Ngọc.
b.
Mối tình Giả Bảo Ngọc – Tiết Bảo Thoa
Ngoài việc xây dựng thành
công cặp đôi Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc rất tinh tế và độc đáo ra, Tào Tuyết
Cần còn tạo dựng được mối tình si của Bảo Ngọc và cô nàng Tiết Bảo Thoa xinh xắn,
yêu kiều. Và như phần đầu có nói, “ý dâm” ở đây là những mối si tình của Giả Bảo
Ngọc, chính vì thế giờ đây chúng ta cùng đi tìm kiếm chuyện tình của cặp đôi
này như thế nào?
Tiết Bảo Thoa là người phụ
nữ truyền thống. Năm 1954, Lý Hy Phàm cho đăng bài trên tạp chí Tân quan sát kỳ
23 có đoạn “Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa là hai tính cách hoàn toàn đối lập
nhau….Bảo Thoa là kẻ kiên quyết bảo vệ chế độ phong kiến, có đầy đủ “đức” và
“tài” như yêu cầu của lễ giáo phong kiến”.
Cô không lớn tuổi hơn Bảo
Ngọc và Đại Ngọc nhiều, nhưng phẩm cách
của cô rất đứng đắn, phong tư lộng lẫy, cách cư xử khoát đạt, tùy phận theo thời
nên rất được mọi người yêu quý. Cô lên kinh đô là để chờ cơ hội tuyển vào cung,
đó là mong ước chung của biết bao cô gái truyền thống, họ nghĩ rằng được phục vụ
vua là một đặc ân to lớn. Bảo Thoa hiện lên xinh đẹp trong những cái giản dị đời
thường, không cầu kì bởi phấn sáp “Bảo
Thoa..đầu vén, tóc đen nhánh, mặc áo bông màu gụ, cái khoác vai màu tím nhạt viền
kim ngân tuyến, quần lụa bông lót màu vàng tất cả đều đã rung rúc, giở cũ giở mới,
nhìn không có vẻ xa hoa mà lại thêm nhũn nhặn, môi không tô mà đỏ, mày không kẻ
vẫn xanh, mặt như mâm bạc, mắt sáng long lanh”. Và cô còn đẹp hơn biết bao
nhiêu trong ngày lễ cưới :
“Vẻ thanh nhã bông sen chưa rủ,
Dáng yêu kiều hoa hạnh khói lồng”
Cái nét đẹp ấy, đôi lúc
cũng làm Bảo Ngọc phải ngây dại, “Bảo Ngọc ngắm nghía dáng điệu của Bảo Thoa,
thấy da mặt nõn nà, khóe mắt long lanh, không đánh sáp mà làn môi vẫn đỏ, không
kẻ mày mà nét mặt vẫn xanh…Bảo Ngọc bất giác đứng ngẩn người ra”.
Không những có một sắc đẹp
tự nhiên trời phú mà Bảo Thoa còn có cả cho mình một kho tàng kiến thức và ứng
xử rất tốt. Như lúc chơi xúc xắc với Giả Hoàn, Hương Lăng và Oanh Nhi, cô biết
rằng Giả Hoàn chơi gian nhưng lại ứng xử rất khéo léo “Có lẽ nào các cậu lại
nói dối”. Rồi sợ Bảo Ngọc trách mắng Giả Hoàn, Bảo Thoa cũng nhanh chóng tìm
cách che giấu. Một chi tiết nhỏ thôi, nhưng ta cũng thấy rõ hình ảnh một Tiết Bảo
Thoa biết suy tính thấu đáo.
Bảo Thoa rất tinh tế, cô
biết cách nhìn nhận, đánh giá người khác. Trong khi lần đầu nói chuyện với Tập
Nhân cô đã nhận ra ngay được một điều “Đừng
nên coi thường con bé này. Nghe nó nói xem ra cũng có chút kiến thức”.
Trong khi nói chuyện với người khác cô ấy không quên “để ý xem xét lời ăn tiếng nói và tính tình của con người”.
Bảo Thoa ngay từ ban đầu
đã có ý thức sửa soạn đúng với thân phận tiểu thư danh giá, cô khéo léo lấy
lòng mọi người. Vào dịp sinh nhật của cô, Giả Mẫu đã cho tổ chức một bữa tiệc
thật vui. Khi được mọi người cho phép chấm bài nghe hát, cô ấy toàn chấm những
bài vui nhộn mà Giả Mẫu thích. Điều đó càng làm cho mọi người quý cô ấy hơn.
Chính Giả mẫu cũng phải khen rằng “trong
bốn đứa cháu nhà này, không ai bằng được cháu Bảo Thoa”. Hay khi nhận xét về
Đại Ngọc, Giả mẫu cũng nói “..Về mặt thông minh nó cũng chẳng thua kém con Bảo
là mấy, nhưng về mặt biết rộng, bao dung đối với người khác thì không được như
con Bảo”. Ngay cả một người khó tính hay ghen ghét đố kị như dì Triệu cũng phải
thừa nhận “cô biết cách ăn ở, cư xử rộng rãi”. Không những thế, mà kể đến cả Đại
Ngọc, một người luôn bị người khác cho là nhỏ nhen ích kỉ, cũng có lúc phải cảm
thương cho Bảo Thoa. Biết được điểm yếu của Đại Ngọc là sự cảm thương cho người
khác, Bảo Thoa đã viết thư cho Đại Ngọc, đánh động vào tâm lí của nàng ta: “Đại
Ngọc xem xong, khôn xiết thương cảm.”.
Không những biết cách lấy
lòng người khác, mà cô còn biết dùng thuật “ve sầu lột xác” để đẩy nạn sang Đại
Ngọc. Đó là lúc Bảo Thoa nghe được những chuyện tế nhị, xấu xa của Hồng Ngọc và
Trụy Nhi, cô đã giả bộ như đang đi tìm Đại Ngọc mà không nghe thấy gì. Quả thật,
sự nhanh nhẹn trong cách ứng biến đã giúp ích không ít trong cuộc đời của cô.
Tuy là mang thân phận nữ
nhi sống trong cảnh xã hội phong kiến, nhưng cô rất thích đọc sách và đặc biệt
có tầm hiểu biết rất rộng. Cô không chỉ am hiểu về thơ văn, thêu thùa mà còn cả
về hội họa, ca hát, đoạn nào vui, đoạn nào hay cô đều nhớ cả. Hơn thế nữa, cô
còn am hiểu về các loại thuốc, khi Đại Ngọc bị bệnh cô khuyên không nên dùng
nhiều nhân sâm và nhục quế, những loại thuốc này vị nóng quá sẽ làm ảnh hưởng
không tốt tới sức khỏe. Khi mẹ bị bệnh vì bị Kim Quế trêu tức, cô ấy cũng không
cần đến thầy thuốc mà tự mình kê đơn sai người sắc. Là một cô gái tài năng,
nhưng cô là một người khuôn phép theo đúng lễ giáo phong kiến, nên chính cô cho
rằng “con gái không có tài ấy là có đức”. Ngay cả chuyện hỷ sự cả đời của cô,
cô cũng không tự quyết định. Theo lễ giáo của xã hội phong kiến lúc bấy giờ thì
“cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Khi nghe mẹ nói về hôn sự giữa cô và Bảo Ngọc, cô
nói “việc của con gái là do ba mẹ làm chủ; giờ cha con mất rồi mẹ nên làm chủ lấy;
không nữa thì hỏi anh con, sao hỏi con”. Mặc dù, ttrong thâm tâm, Tiết Bảo Thoa
đã có tình cảm với Bảo Ngọc, nhưng do cái luật phong kiến từ xưa vẫn thế, cô đã
để cho mẹ quyết định. Như vậy, thông qua nhân vật Tiết Bảo Thoa ta đã thấy và
hình dung ra được một con người mà xã hội phong kiến đã đào tạo. Điều đó cũng
được khẳng định rõ nét qua lời nhận xét của người mẹ cô_Tiết phu nhân “nó là
con gái xưa nay lại hiếu thuận, và biết giữ lễ, biết mình nhận lời rồi thì nó
cũng chẳng thể nói được gì”
Trong mọi chuyện, cô luôn
tỏ ra là người điềm tĩnh, suy nghĩ thấu đáo. Khi Tiết Bàn ra ngoài gây gổ, đánh
lộn, giết chết người,… Bảo Thoa luôn suy tính mọi việc cho êm đẹp. Hay ngay sau
lúc đám cưới của cô và Bảo Ngọc xong xuôi, nhận ra sự gian trá trong hôn nhân,
Bảo Ngọc không bình tĩnh, cô đã dùng những lí lẽđạo đức hết sức đúng đắn để
khuyên răn Bảo Ngọc. Rồi cả việc cô nói cho Bảo Ngọc biết chuyện Lâm Đại Ngọc
đã mất, ai cũng trách mắng cô, cho rằng do cô hấp tấp, nhưng thực thể nào đâu
phải. Bảo Thoa hiểu rõ, thà để Bảo Ngọc đau đớn một lần rồi xong, còn hơn là cứ
dằn vặt suốt ngày suốt tháng ấy. Là một người biết tính trước đó đây nhưng cô
cũng là người rộng lượng và suy tính cho những kẻ nghèo khó “họ khó nhọc cả năm
cũng để cho họ kiếm ít lời để tiêu dùng chứ!”
Tóm lược
lại ta thấy Tiết Bảo Thoa không bộc lộ hoàn toàn theo những tình cảm chân thực
như Lâm Đại Ngọc, mà thường được cân nhắc đắn đo. Nàng lúc nào cũng “an phận
tùy thời”, “giả ngu giả dại”, nhất cử nhất động đều tỏ ra rất mực “đoan trang
hiền thục”. Nói cách khác, Tiết Bảo Thoa là một nhân vật phụ nữ lí tính. Nàng
còn ít tuổi mà đầy bản lĩnh, ở nàng tất cả đều đúng mực, hợp lí, nàng là hiện
thân của nguyên lí đạo đức phong kiến. Bao giờ nàng cũng là một người con gái
sống cho gia đình, sống cho ý định người khác và ý định đó luôn được nàng chấp
nhận vì đó cũng chính là của nàng. Sự hòa hợp giữa nàng và gia pháp phong kiến
là điều hoàn toàn tự nguyện.
Đại Ngọc đã vĩnh viễn ra
đi, Bảo Ngọc buồn khôn xiết, thế nhưng, trong quá trình sống gần gũi với Bảo
Thoa, Bảo Ngọc đã nhận ra sự dịu dàng của cô mà dần dần đem lòng yêu mến Đại Ngọc
chuyển sang cho cô. Tuy là như thế, nhưng Bảo Thoa cũng đâu được vui vẻ và
thanh thản. Sự ra đi của em Lâm trong đúng lúc đám cưới của cô diễn ra, cô đau
lắm chứ, nỗi đau của một người con gái tinh tế như cô. Đã là một người vợ mà
trong lòng chồng mình chỉ luôn nhớ về người con gái khác, đáng lẽ ra Bảo Thoa sẽ
phải giận lắm, bực lắm. Nhưng không, cô luôn kìm chế nó, cô luôn dùng lời bóng
gió để khuyên chồng, cô đủ thông minh để nhận ra mình là gì trong trái tim của
anh ta. Như vậy, Tiết Bảo Thoa tuy lúc nào cũng tỉnh táo, cũng lắm mẹo nhưng nàng
cũng là một nhân vật đáng thương. Nàng cũng yêu Giả Bảo Ngọc nhưng phải tự kiềm
chế, che giấu trong lòng. Hai con người với hai tính cách khác nhau đã gây ra
bi kịch giữa hai người. Bảo Ngọc thì phóng túng, không thích gò bó, Bảo Thoa
thì ngược lại, cô luôn sống theo một khuôn khổ nhất định. Điều quan trọng là
thái độ căm ghét của Giả Bảo Ngọc đối với lối sống phong kiến “làm quan trị
nước” không thể không xung đột với nàng về mặt tư tưởng. Bảo Ngọc không hề muốn
sống cuộc sống theo lối sống phong kiến, thi cử làm quan. Bảo Thoa thì luôn
luôn muốn Bảo Ngọc ra thi cử, làm quan, vẻ vang dòng họ… Buồn rầu đau đớn, mất
đi người tri kỉ hiểu được lòng mình là Lâm Đại NGọc, giờ đây, không ai có cùng
chí tuyến với Bảo Ngọc nữa, ở đây nó đã làm nảy sinh mâu thuẫn trong tình yêu
của Bảo Thoa đối với Giả Bảo Ngọc: quan hệ giữa nàng và Bảo Ngọc
“như gần như xa”!. Tư tưởng của Bảo Ngọc không hề muốn thi cử làm quan, nhưng
vì gia đình, chàng đã quyết định đi thi. Quyết định đi thi, nhưng không có
nghĩa là quyết định làm quan. Ban đầu, Bảo Ngọc còn phân vân tình cảm của mình
với Bảo Thoa, tưởng như tình cảm đối với Lâm Đại Ngọc đã dần chuyển hóa cho
Tiết Bảo Thoa, nhưng đến đây, xung đột giữa hai tính cách tăng cao khiến Bảo
Ngọc phải đưa ra quyết định. Sau khi đi thi, chàng bỏ nhà đi tu, chàng đi tu vì
không chấp nhận cuộc sống số phận này, chàng đi tu để chứng minh cho tình yêu
sâu đậm của mình với Lâm Đại Ngọc. Bảo Thoa với sự thông minh, nhanh nhạy của
mình đã sớm nghi ngờ về chuyện đó, đứng trên nỗi đau như cắt, cô đã hết lời
khuyên răn, ngăn cản anh ta “Tôi nghĩ cậu cùng tôi đã kết nghĩa vợ chồng, thì
cậu là người tôi nương tựa suốt đời, vốn không phải chỉ vì lòng tình dục…”.
Niềm hạnh phúc của cô cũng thật nhỏ nhoi, thấy Bảo Ngọc đem đốt sách về đạo lý
nhà Phật và chuyên tâm đọc sách học hành thi cử đôi môi cô đã lại được mỉm
cười. Thế nhưng, sự thật rồi cũng phải đến, chàng bỏ đi tu để lại một nỗi đau
khá lớn trong lòng những thân nhân trong gia đình, đặc biệt là Bảo Thoa. Giờ
đây, Bảo Thoa còn đang mang trong mình cốt nhục của Bảo Ngọc. Nhưng hạnh phúc
là gì, nào đâu có tới nàng? Nó ở nơi xa vắng không biết thế nào. Bất lực và vô
vọng trong tình yêu “Bảo Thoa trong lòng đau xót, nhưng không dám nhỏ nước
mắt”, “Bảo Thoa tưởng nhớ Bảo Ngọc, cứ khóc thầm, than thân tuổi phận”.
Như vậy,
thông qua mối si tình của Tiết Bảo Thoa và Giả Bảo Ngọc ta có thể khẳng định
được rằng, hai con người, hai tính cách đối lập nhau không thể hòa chung một
nhịp được. Kết thúc của Bảo Thoa là một bi kịch, bi kịch này là bi kịch nói của
một con người trung thành với lễ giáo phong kiến. Bảo Ngọc bất chấp mối duyên
tình “vàng” “ngọc” giữa chàng và Bảo Thoa, bất chấp số phận ăn bài để một lòng
một dạ với người yêu. Quả thật, đến đây, Tào Tuyết Cần đã sáng chế một cách
thật độc đáo, đúng như các nhà nghiên cứu khẳng định là “đi trước thời đại”,
một tình yêu vượt qua tất cả.
Như vậy, dù mọi người có nhìn nhận Bảo Thoa
thích hợp với Bảo Ngọc cách mấy thì trước sau Bảo Ngọc cũng chỉ yêu Đại Ngọc,
ba người họ tạo thành một bi kịch tình yêu. Bảo Thoa có được Bảo Ngọc nhưng
không bao giờ có được tình yêu, Đại Ngọc có được tình yêu nhưng lại mất người
yêu, ôm hờn nuốt tủi mà lìa đời, Bảo Ngọc thì đi tu…tạo nên trục chính của câu
chuyện, bi kịch của tình yêu và hôn nhân giữa những người mang tư tưởng theo
phong kiến và những người có tư tưởng mới.
c.
Mối tình Giả Bảo Ngọc – Tập Nhân
Tác phẩm Hồng Lâu Mộng
– tiểu thuyết ái tình hay nhất mọi thời đại xoay quanh câu chuyện tình duyên trắc
trở giữa hai anh em con cô con cậu: Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc. Chuyện tình
giữa họ là một câu chuyện tình đẹp, nhiều chông gai và sóng gió.
Để góp phần làm cho tác phẩm thêm phong
phú, nhiều sắc thái, nhiều cung bậc khác nhau về tình yêu cũng như đưa nhân vật
đứng trước những lựa chọn, những quyết định, tác giả đã xây dựng những mối tình
bên lề của nhân vật nam chính Giả Bảo Ngọc với những tiểu thư, những a hoàn hầu
cận Bảo Ngọc.
Sở dĩ tác giả cố công điểm vào mối tình
giữa Bảo Ngọc với tiểu thư đài các sắc sảo Bảo Thoa là để nhấn mạnh, ngợi ca sự
nhìn nhận sáng suốt, quyết định đúng đắn về tình yêu của Bảo Ngọc. Mặc dù lúc đầu
rất yêu Bảo Thoa nhưng cuối cùng Bảo Ngọc nhận thấy Bảo Thoa
chỉ mong ngóng cái danh "lập thân" nên Bảo Ngọc đã dành trái tim mình
cho Đại Ngọc. Bên cạnh đó, Tào Tuyết Cần còn vẽ nên một mối tình cũng không kém
phần sâu đậm giữa Bảo Ngọc và cô a hoàn Tập Nhân.
Tập Nhân là người hầu thân cận nhất của
Bảo Ngọc và cũng là nàng hầu (di nương) chưa chính thức. Trước là người hầu của
Giả Mẫu, được cho sang hầu hạ Bảo Ngọc; tên Tập Nhân là được Bảo Ngọc đặt cho
theo câu: Hoa khí tập nhân.
Tập Nhân là cô hầu mẫu mực, chu đáo, biết nghĩ lại nhũn nhặn, biết chiều lòng
người. Nàng cũng là người đầu tiên có quan hệ ái ân với Bảo Ngọc ở thế giới thực
và đã được Vương phu nhân ngầm chọn là nàng hầu cho Bảo Ngọc sau này, tuy nhiên
việc chưa được quyết định chính thức.
Ở hồi thứ sáu Tào
Tuyết Cần đã miêu tả cảnh mây mưa của Bảo Ngọc và Tập Nhân:
“ Lúc này Bảo Ngọc vẫn còn mê man, bâng khuâng như mất
cái gì. Mọi người bưng bát nước hoa quế đến, Bảo Ngọc uống hai ngụm mới đứng dạy
sửa lại quần áo. Tập Nhân đến buộc hộ thắt lưng, vừa thò tay vào quần đùi cuae
Bảo Ngọc, thấy một đám dính như hồ lành lạnh, Tập Nhân giật mình co tay lại hỏi:
-
Cái gì thế này?
-
Bảo Ngọc đỏ bừng mặt
bấm mạnh tay Tập Nhân một cái. Tập Nhân là cô gái thông minh, hơn Bảo Ngọc hai
tuổi. Gần đây cô ta cũng hơi biết mùi đời, thấy thế trong bụng hiểu ngay một phần
nào, tự nhiên má đỏ bừng lên, không hỏi nữa , cứ thế sửa lại quần áo cho Bảo Ngọc
rồi đưa đến chỗ Giả Mẫu. Bảo Ngọc ăn qua loa bữa cơm chiều, trở ngay về nhà. Gặp
lúc vắng người hầu, Tập Nhân lấy ngay quần lót cho Bảo Ngọc thay Bảo Ngọc ngượng
nghịu:
-
Chị đừng cho ai biết
nhé!
Tập Nhân cũng ngượng nghịu cười khẽ:
-
Cậu mơ gì thế? Cái này ở đâu chảy ra thế?
-
Không sao nói hết được.
-
Bảo Ngọc liền đem việc trong mộng kể
lại tỉ mỉ cho Tập Nhân nghe. Khi nói đến cuộc mây mưa mà tiên cô truyền cho,
làm Tập Nhân xấu hổ, bưng mặt gục đầu xuống
cười. Bảo Ngọc xưa nay vẫn thích Tập Nhân có vẻ nhu mì, xinh xắn, bèn nài Tập
Nhân cùng mình diễn lại những việc nàng tiên Cảnh ảo đã chỉ dẫn trong mộng. Tập
Nhân biết Giả mẫu đã giao mình cho Bảo Ngọc, dù sao cũng không vượt qua khuôn
phép, nên bằng lòng, may không ai trông thấy cả.
Từ đấy, Bảo Ngọc biệt đãi Tập Nhân hơn hẳn
mọi người, Tập Nhân cũng hết lòng hầu hạ Bảo Ngọc hơn trước.”
Rõ ràng, mối
tình Bảo Ngọc – Tập Nhân là mối tình mở màng cho chặng tình trường lắm gian
truân của Bảo Ngọc xuyên suốt câu chuyện. Bảo Ngọc biết về cảnh hoan lạc của thế
gian sau một giấc mộng được tiên cô chỉ bày cho cách thức ái ân. Lần đầu tiên Bảo
Ngọc thử cuộc mây mưa là với Tập Nhân. Phút giây cận kề nam nữ, cảm giác giao
hòa giữa Bảo Ngọc với Tập Nhân đánh dấu bước trưởng thành của một cậu ấm sống
nhung lụa nơi vương giả. Là cột mốc đánh dấu quan trọng của một người đàn ông
thực thụ.
Với ý nghĩ
ban đầu hết sức đơn giản là diễn lại những việc nàng tiên Cảnh ảo chỉ dẫn trong
mộng, Giả Bảo Ngọc đã thử cuộc mây mưa với Tập Nhân. Đây không phải đơn thuần là
một cuộc “thử yêu”, giữa họ vẫn có tình cảm quý mến nhau, họ hoàn toàn tự nguyện
đến với nhau, không có một ràng buộc, khuôn khổ nào và cả hai đều cảm thấy hạnh
phúc sau cuộc ân ái.
Kể từ
ngày hôm đó, Bảo Ngọc đã luôn nghe lời Tập Nhân, xem Tập Nhân như vợ của mình,
một người có tầm quan trọng và sức ảnh hưởng lớn đối với mình. Cũng từ hôm đó,
gia đình Bảo Ngọc đã xem Tập Nhân như một người vợ bé của Bảo Ngọc, họ quý mến,
yêu thương và đối xử với Tập Nhân hết sức tử tế, đàng hoàng. Họ đối đãi với Tập
Nhân như với một nàng dâu trong gia đình, một thành viên trong gia đình. Mọi
chuyện trọng đại đều có sự góp mặt của Tập Nhân. Trong mắt họ, Tập Nhân đã
không còn mang thân phận một cô hầu gái, một a hoàn trong nhà nữa mà là một người
vợ, một người con dâu.
Trong hồi
thứ hai mươi mốt có đoạn:
“Đến bữa cơm chiều, Bảo Ngọc uống vài chén
rượu. Như mọi bận, sau những lúc tai nóng bừng bừng, mắt buồn ngủ ríu lại là đã
có bọn Tập Nhân cười đùa vui vẻ; nhưng lần này thì vắng tanh, vắng ngắt, một
mình ngồi trước ngọn đèn, chẳng thú vị gì. Nếu mình làm lành với họ, sợ họ được
thể, sau càng giở giọng khuyên ngăn mãi, nhưng làm ra dáng bề trên mà lấn át họ,
lại thành ra người quá vô tình. Thôi chẳng nghĩ làm gì cho bận lòng, cứ coi như
họ đã chết cả rồi, thế là tự mình sống thế nào cũng xong, không bị bó buộc, lại
hóa thoải mái vui vẻ.
Bảo Ngọc
giở kinh Nam hoa ra xem, đến Ngoại
thiên Khư níp có một đoạn văn:
... Cho nên bỏ hết thánh trí, trộm lớn mới thôi; phá hủy châu ngọc, trộm nhỏ sẽ hết. Đốt dấu đập ấn, dân mới thật thà; chặt đấu phá cân, dân không tranh nhau; bỏ hết pháp luật, dân mới có thể bàn bạc việc nước. Bộ sáu ống luật, đốt đàn sáo, lấp tai sư, Khoá thiên hạ mới không có người khoe thính tai; xóa văn chương, hủy năm sắc, sơn mắt Ly Chu, thiên hạ mới không có người khoe mắt sáng; bỏ mục thước, khuôn, mẫu, chặt tay Công Thùy, thiên hạ mới không có người kheo khéo tay vậy.
... Cho nên bỏ hết thánh trí, trộm lớn mới thôi; phá hủy châu ngọc, trộm nhỏ sẽ hết. Đốt dấu đập ấn, dân mới thật thà; chặt đấu phá cân, dân không tranh nhau; bỏ hết pháp luật, dân mới có thể bàn bạc việc nước. Bộ sáu ống luật, đốt đàn sáo, lấp tai sư, Khoá thiên hạ mới không có người khoe thính tai; xóa văn chương, hủy năm sắc, sơn mắt Ly Chu, thiên hạ mới không có người khoe mắt sáng; bỏ mục thước, khuôn, mẫu, chặt tay Công Thùy, thiên hạ mới không có người kheo khéo tay vậy.
Bảo Ngọc xem đến đấy, lấy làm hứng thú lắm.
Nhân lúc say rượu, cầm bút viết luôn mấy câu nối sau:
Đốt hoa, vứt xạ, trong khuê các mới hết lời
khuyên can lôi thôi; hủy sắc đẹp của Bảo Thoa. Lấp khiếu thông minh của Đại Ngọc,
dứt hết tình ý, trong khuê các mới không có kẻ xấu người đẹp chênh lệch nhau;
thôi sự khuyên can, sẽ không lo nỗi sâm thương xích mích; hủy hết sắc đẹp, sẽ
không còn mối luyến ái vấn vương; lấp khiếu thông minh, mới không còn vẻ tài
tình quyến rũ. Kìa bọn Thoa, Ngọc, Hoa, Xạ đều là những kẻ chăng lưới, đào bẫy
để cám dỗ hãm hại người vậy.
Viết xong, Bảo Ngọc quăng bút, gục đầu xuống
gối, ngủ ngay một mạch, đến sáng bạch mới dậy. Giở mình trông ra, thấy Tập Nhân
mặc cả áo nằm ngủ trên đệm, bao nhiêu việc hôm trước, Bảo Ngọc quên hết, bèn đẩy
Tập Nhân bảo:
- dậy thôi, ngủ thế không khéo lại bị lạnh.
Nguyên Tập Nhân thấy Bảo Ngọc không kể ngày
đêm, lúc nào cũng vui đùa với bọn chị em. Nếu mình cứ lấy lời thẳng thắn khuyên
ngăn, chưa chắc cậu ta đã sửa đổi, chi bằng làm ra bộ hờn dỗi nũng nịu, dù Bảo
Ngọc có bực tức, rồi chỉ chốc lát sẽ lại tử tế như thường, không ngờ Bảo Ngọc vẫn
không hồi tâm chuyển ý. Tập Nhân nghĩ luẩn quẩn không biết làm cách gì, thành
ra suốt đêm không ngủ. Nay thấy vậy, biết là Bảo Ngọc đã nghĩ lại phần nào, nên càng cố ý lờ đi như không.
Bảo Ngọc thấy Tập Nhân không trả lời, bèn
giơ tay cởi hộ áo. Một cái khuy vừa được cởi thì Tập Nhân đã hất tay ra, cài
ngay khuy lại.
Bảo Ngọc không còn cách gì, đành kéo tay Tập Nhân cười nói:
- Chị vẫn làm sao thế?
Bảo Ngọc không còn cách gì, đành kéo tay Tập Nhân cười nói:
- Chị vẫn làm sao thế?
Hỏi luôn mấy câu, Tập
Nhân trừng mắt nói:
- Chẳng sao cả. Cậu đã dậy, thì sang ngay bên kia mà rửa mặt chải đầu, chậm sẽ không kịp đấy.
- Chị bảo tôi sang đâu?
- Cậu lại hỏi tôi, tôi biết sao được? Cậu thích sang đâu, cứ đấy mà sang. Từ giờ hai chúng ta hãy chia tay nhau ra để bớt những điều tiếng om sòm, làm trò cười cho người ta. Dù đến lúc cậu chán ở bên kia rồi, thì bên này đã có con Tư con Năm nào đấy hầu hạ. Còn thứ chúng tôi chỉ làm nhơ nhuốc cái tên đẹp họ đẹp đi thôi!
- Đến hôm nay chị vẫn còn nhớ những câu ấy à?
- Còn nhớ mãi đến trăm năm! Đâu lại như cậu, coi lời tôi như gió thoảng ngoài tai. Đêm nói, sáng dậy đã quên rồi.
Bảo Ngọc thấy dáng điệu hờn dỗi nũng nịu của Tập Nhân không thể dứt tình được, bèn lấy ngay cái trâm ngọc bên gối, bẻ ra làm đôi mà thề: "Từ giờ nếu tôi không nghe lời chị thì cũng như cái trâm này!".
Tập Nhân vội nhặt trâm nói:
- Sáng sớm ra, làm gì đã thề với bồi? Nghe hay không là tùy ở cậu, cần gì phải làm như vậy.
- Lòng tôi đang bứt rứt, chị có biết cho đâu?
- Cậu biết lòng cậu bứt rứt, thế thì lòng tôi thế nào, cậu có biết không? Thôi hãy đi rửa mặt đã.”
- Chẳng sao cả. Cậu đã dậy, thì sang ngay bên kia mà rửa mặt chải đầu, chậm sẽ không kịp đấy.
- Chị bảo tôi sang đâu?
- Cậu lại hỏi tôi, tôi biết sao được? Cậu thích sang đâu, cứ đấy mà sang. Từ giờ hai chúng ta hãy chia tay nhau ra để bớt những điều tiếng om sòm, làm trò cười cho người ta. Dù đến lúc cậu chán ở bên kia rồi, thì bên này đã có con Tư con Năm nào đấy hầu hạ. Còn thứ chúng tôi chỉ làm nhơ nhuốc cái tên đẹp họ đẹp đi thôi!
- Đến hôm nay chị vẫn còn nhớ những câu ấy à?
- Còn nhớ mãi đến trăm năm! Đâu lại như cậu, coi lời tôi như gió thoảng ngoài tai. Đêm nói, sáng dậy đã quên rồi.
Bảo Ngọc thấy dáng điệu hờn dỗi nũng nịu của Tập Nhân không thể dứt tình được, bèn lấy ngay cái trâm ngọc bên gối, bẻ ra làm đôi mà thề: "Từ giờ nếu tôi không nghe lời chị thì cũng như cái trâm này!".
Tập Nhân vội nhặt trâm nói:
- Sáng sớm ra, làm gì đã thề với bồi? Nghe hay không là tùy ở cậu, cần gì phải làm như vậy.
- Lòng tôi đang bứt rứt, chị có biết cho đâu?
- Cậu biết lòng cậu bứt rứt, thế thì lòng tôi thế nào, cậu có biết không? Thôi hãy đi rửa mặt đã.”
Tình yêu giữa họ đã xuất hiện sự ghen tuông – một mùi vị không thể thiếu
trong tình yêu. Nó làm cho người trong cuộc cảm thấy cần nhau hơn và biết cách
giữ gìn người mình yêu. Pha vào đó là sự nũng nịu nhõng nhẽo của người con gái
khi yêu, sự nuông chiều của chàng trai đối với người mình yêu.
Mối tình giữa họ được xây dựng vô cùng đặc sắc, nhất là ở đoạn thề nguyền.
Giả Bảo Ngọc đã bẻ gãy chiếc trâm để minh chứng cho tấm lòng son sắc của mình,
nếu trái lời Bảo Ngọc sẽ gặp phải kết cục bi thảm như chiếc trâm. Đến lúc này Tập
Nhân toan can ngăn vì không muốn thấy người mình yêu thương vô tình phải chịu sự
trừng phạt và thề thốt nặng nề như vậy.
Tập Nhân khi nghe tin Bảo Ngọc bị thất lạc thì bụng đau như cắt, nước mắt
chảy ròng ròng, cứ nghẹn ngào khóc mãi, trong lòng luôn nhớ lại mối tình của
mình với Bảo Ngọc, có lúc lại buồn giận bản thân, cảm thấy hối hận vì lúc trước
đã lỡ lời trêu Bảo Ngọc, khiến Bảo Ngọc thề thốt sẽ đi tu, nay lời thề đã ứng với
sự thật. Đến khi nghe tin Bảo Ngọc không trở về nữa, Tập Nhân không nén được nỗi
đau, khóc lóc thảm thiết, ngã nhào xuống đất. Vương phu nhân thương hại cho người
vực dậy đưa về phòng. Sau đó, Tập Nhân lại càng ốm nặng hơn, bệnh tình ngày
càng trầm trọng. Khi đã qua cơn nguy kịch và được gả về làm vợ Tưởng Ngọc Hàm,
Tập Nhân vẫn khôn nguôi thương nhớ Bảo Ngọc, ngày đêm nhung nhớ, luôn một lòng
hướng về Bảo Ngọc, nhất quyết không chấp nhận Tưởng Ngọc Hàm.
Tóm lại, mối tình giữa Bảo Ngọc với Tập Nhân không sâu đậm như mối tình
giữa Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc. Đồng thời, mối tình này cũng không có một kết
cục tốt đẹp nhưng nó đóng vai trò trọng yếu trong những cuộc tình của Bảo Ngọc.
Nó đánh dấu bước trưởng thành đáng kể của bảo Ngọc và là cơ sở, nền tảng của những
cuộc tình tiếp theo. Bảo Ngọc tìm đến với những người mình cảm mến và ân ái với
họ. Qua đó, ta thấy được rõ ràng “ý dâm” của tác phẩm Hồng Lâu Mộng. Ý dâm ở
đây không hoàn toàn phê phán con người. Tào Tuyết Cần đã dụng công xây dựng những
tình tiết chân thực, cụ thể để nói lên những lạc thú tầm thường của con người,
những điều hết sức gần gũi và có thể xem như là hiển nhiên, không có gì đáng
chê trách. Đồng thời, tác giả khéo léo cho người đọc thấy được dụng ý nghệ thuật
với cuộc đời, con người đôi khi phải quy phục chính mình, đã là con người phàm
tục thì không ai tránh khỏi những ham muốn thuộc về bản năng, thuộc về tạo hóa.
d.
So sánh ba mối tình
GIỐNG NHAU:
Cả ba mối tình Giả Bảo Ngọc-Lâm Đại Ngọc, Giả Bảo Ngọc - Tiết Bảo Thoa, Giả Bảo Ngọc –Tập Nhân :
+ Cả ba người con gái đều được Giả Bảo Ngọc
trân trọng, đối xử tốt.
+ Tình trường lắm gian truân của Bảo Ngọc xuyên suốt
câu chuyện.
+ Đều có
cái kết không tốt đẹp
+ Để lại
cho người tình một cái kết ảnh hưởng cuộc đời của Bảo Ngọc
+ Là bi kịch
của cuộc đời Bảo Ngọc
KHÁC NHAU
ĐẶC ĐIỂM MỐI TÌNH
|
GIẢ BẢO NGỌC-LÂM ĐẠI NGỌC
|
GIẢ BẢO NGỌC- TIẾT BẢO
THOA
|
GIẢ BẢO NGỌC – TẬP NHÂN
|
Xuất thân
|
-Mối lương duyên Cây –
Đá từ kiếp trước.
- Lớn lên bên nhau thành một cặp song ngọc..
|
-Đôi bạn con với dì Bảo
Ngọc.
-Tình yêu từ một phía
Tiết Bảo Thoa.
|
-Là người hầu thân cận nhất của Bảo Ngọc và cũng là
nàng hầu (di nương) chưa chính thức.
-Với GBN chủ yếu là do dục vọng.
-Tập Nhân là tình đơn phương,
không thổ lộ.
|
Đặc điểm người tình
|
-Cho rằng Bảo Ngọc không cần thi cử, là quan và lánh xa công danh
phú quý.
-Không thích thơ hàn
lâm, không thích con đường thi cử...
- +Không
thích học tập chữ nghĩa thánh hiền,
+Trốn
học, xem thường những con mọt sách, mọt công danh.
|
- “An phận tùy thời”, “giả ngu giả dại”, nhất cử nhất động đều tỏ
ra rất mực “đoan trang hiền thục”.
-Một nhân vật phụ nữ lí tính.
-Đầy bản lĩnh, ở nàng tất cả đều đúng mực, hợp lí, nàng là hiện
thân của nguyên lí đạo đức phong kiến.
-Bảo Thoa chỉ mong ngóng cái danh "lập
thân".
|
là cô
hầu mẫu mực, chu đáo, biết nghĩ lại nhũn nhặn, biết chiều lòng người.
-Là
người đầu tiên có quan hệ ái ân với Bảo Ngọc ở thế giới thực và đã được Vương
phu nhân ngầm chọn là nàng hầu cho Bảo Ngọc sau này, tuy nhiên việc chưa được
quyết định chính thức.
|
Mâu thuẫn mối tình
|
-Mọi người trong gia đình không mong muốn cuộc hôn nhân này diễn
ra.-Mâu thuẫn giữa khát vọng tự do và sự ràng buộc của gia đình và
xã hội phong kiến.
|
-Thái độ căm ghét của Giả Bảo Ngọc đối với lối sống phong kiến
“làm quan trị nước” không thể không xung đột với nàng về mặt tư tưởng.
-Mâu thuẫn trong tình yêu của nàng đối với Giả Bảo
Ngọc: quan hệ giữa nàng và Bảo Ngọc “như gần như xa”.
|
-Vợ bé không danh chính
ngôn thuận.
|
Kết thúc mối tình
|
-Đại Ngọc không lấy
được Bảo Ngọc nên phẫn uất => học
máu mà chết.
- Người tâm đầu ý hợp của Gỉa Bảo Ngọc.=> Bi kịch của nàng là
mâu thuẫn về gia đình và lễ giáo phong kiến.
-Giả Bảo
Ngọc điên loạn ngốc nghếch cũng vì không đi được đến đích của tình yêu.
|
-Tuy nàng và Bảo Ngọc thành vợ chồng , có một đứa con nhưng
không được hưởng hạnh phúc của tình yêu, rốt cuộc nàng cũng trở thành một
nhân vật bi kịch.
=> Bi kịch của nàng là bi kịch của một người trung thành với
đạo đức phong kiến.
|
-Bảo Ngọc biến mất,
lặng lẽ ôm nỗi buồn tủi, ba lần tìm cái chết mà thất bại.
=> Bi kịch thân phận.
|
Như vậy, dù mọi người có nhìn nhận Bảo Thoa thích hợp với Bảo Ngọc
cách mấy thì trước sau Bảo Ngọc cũng chỉ yêu Đại Ngọc, ba người họ tạo thành
một bi kịch tình yêu. Bảo Thoa có được Bảo Ngọc nhưng không bao giờ có được
tình yêu, Đại Ngọc có được tình yêu nhưng lại mất người yêu, ôm hờn nuốt tủi mà
lìa đời, Bảo Ngọc thì đi tu…tạo nên trục chính của câu chuyện, bi kịch của tình
yêu và hôn nhân giữa những người mang tư tưởng theo phong kiến và những người
có tư tưởng mới.
Riêng mối tình giữa Bảo Ngọc và Tập Nhân chỉ là
một mối tình để đánh dấu sự trưởng thành một người đàn ông thực thụ. Là sự ân
ái cho cho "dục vọng" của mình.Họ khác nhau giữa địa vị và thân
thế,...cả ba mối tình đều không có cái kết thúc đẹp.
Giả Bảo Ngọc đi hết cả ba
mối tình, trải qua tất cả nỗi đau và bi kịch chính là đi từ si cho đến tận cùng
của nghiệp, từ đó mới có cơ sở để giải thoát, đẩy nghiệp tình ái của Giả Bảo Ngọc
(ý dâm) đến chặng cuối, thể hiện tư tưởng của tác giả.
3.
Từ si đến ngộ– sự giải thoát và ý nghĩa của “ý dâm”
Những thấu ngộ nhân sinh
của Tào Tuyết Cần có liên hệ chặt chẽ với Phật gia và Đạo gia: coi thế giới này
là huyễn tưởng, là mộng ảo, nhân sinh là vô thường. Ông đứng trên lập trường tu
luyện mà nhìn xét con người. Con người vốn dĩ là khổ. Bởi vậy, mục đích của tu
luyện chính là giải thoát bản thân. Nhân sinh vốn dĩ là tàn khuyết, dù có được
mọi thứ trên thế gian, cũng vẫn là tàn khuyết. Đây chính là cơ sở và tiền đề để
nhận thức “Hồng Lâu Mộng”. Chủ đề của “Hồng Lâu Mộng” trong hồi thứ nhất đã nói
khá rõ ràng: “Trong hồi này tất cả đều dùng chữ “mộng”, chữ “huyễn””, và
đến hồi thứ năm lại được nhấn mạnh thêm. Ngay tại hồi đầu, “Hảo liễu ca” của
Mang Mang đạo sĩ và lý giải kỳ diệu của Chân Sĩ Ẩn đã nêu lên chính xác cách
nhìn xét nhân sinh của người tu luyện. Chỉ vài câu nói của vị đạo sĩ đã cứu độ
được Chân Sĩ Ẩn, nhưng còn biết bao nhiêu người đang giành giật, si mê bất
tỉnh?
Từ đầu, Giả Bảo Ngọc đã được một nàng tiên báo mộng điềm ảo hình
nhập thế. Chữ “dâm” đã khiến thời niên thiếu của Giả Bảo Ngọc trở lên kinh động
bất an. Tuy nhiên, điềm báo mộng ấy không chỉ lạc thú xác thịt mà là thiên mệnh
sinh thành một kiếp si tình. Đối với phụ nữ, Giả Bảo Ngọc hết sức quan tâm, lo
lắng, chiều chuộng, thậm chí tôn sùng họ. Anh ta cảm giác phụ nữ tươi sáng thanh
khiết còn đàn ông thì đục loạn si mê. Cũng chính vì thiên mệnh ái tình quá dồi
dào của mình mà Giả Bảo Ngọc đã đi từ chữ “Sắc” đến ngộ hiểu chữ “Không” để rồi
kết cục trở thành người xuất gia. Điều này càng khiến cho nội dung “Hồng Lâu
Mộng” mang đầy sức hấp dẫn lung linh.
Trong hoàn cảnh cuộc sống đầy vinh hoa phú quý của mình, Giả Bảo
Ngọc chẳng những được thụ hưởng sự sủng ái của bà nội, mẹ mà hết thảy những
người trên kẻ dưới trong phủ nhà họ Giả đều tôn kính “cậu ấm con trời” này.
Niềm vui chốn nhân gian nơi vườn Đại Quan Viên đầy mê đắm và khoái lạc khó
tránh cho Giả Bảo Ngọc thoát khỏi sự chìm đắm trong mê thức. Phụ nữ trong phủ
họ Giả tuy được Giả Bảo Ngọc chăm sóc tận tâm nhưng một số người vẫn phải chia
tay “hòn ngọc linh thiêng” trong định mệnh ngậm ngùi. Đó là Thanh Văn bị đuổi
đi, là Kim Xuyến đâm đầu xuống giếng nước tự tử, và đặc biệt là người bạn gái
tâm linh Lâm Đại Ngọc của anh. Việc mất Lâm Đại Ngọc đã khiến Giả Bảo Ngọc như
ngây ngô, như mê dại hoặc như một tấm thân vô hồn. Đến khi Bảo Ngọc đã mê muội
không nhìn thấy con đường tương lai thì vị thần tăng đã kịp thời xuất hiện để
phục hồi lại “hòn đá thông linh”. Tự thân con người trong trần thế của Giả Bảo
Ngọc đã phải thốt ra câu nói hối hận: “Than ôi, ta đã tự xa cách lâu quá rồi”
để chợt tỉnh ngộ. Khi Giả Bảo Ngọc tỉnh ngộ đuổi theo vị thần tăng cũng chính
là lúc linh hồn Giả Bảo Ngọc tự khai mở để trở về cảnh giới Thái Hư Không.
Tuy Lâm Đại Ngọc là một con người thông minh tuyệt sắc nhưng cô
lại có tâm bệnh vì không thể xa rời được Giả Bảo Ngọc. Để cô yên tâm, Giả Bảo
Ngọc đã đối thoại về giáo lý Phật Pháp với cô. Dưới đây là đoạn trích dẫn cuộc
đối thoại tâm linh giữa hai người:
Giả Bảo Ngọc nói: Cho dù nước sông có ngàn dặm nhưng ta
cũng chỉ múc được một bầu để uống thôi.
Lâm Đại Ngọc hỏi: Bầu có thể trôi nước được không?
Giả Bảo Ngọc trả lời: Không phải bầu làm trôi nước mà nước
tự chảy đi và bầu cũng trôi theo dòng mà thôi.
Lâm Đại Ngọc lại hỏi: Nước lạnh làm chìm ngọc được không?
Giả Bảo Ngọc đáp: Thiền tâm tự thấu tựa Đông tuyết/
Đâu hướng gió Xuân én chao mình.
Đoạn đối thoại trên cho ta thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa Lâm Đại
Ngọc và Giả Bảo Ngọc. Không còn nghi ngờ gì nữa, trong cuộc sống ở cõi nhân
gian của Giả Bảo Ngọc, chỉ có Lâm Đại Ngọc là người bạn tâm linh. Nếu chỉ vì
hoàn cảnh bên ngoài khiến Giả Bảo Ngọc phải lựa chọn bạn đời không theo ý muốn
của bản thân thì điều đó cũng giống như Lâm Đại Ngọc đã từng nói: Bầu bị nước
cuốn trôi thì lẽ nào nó tự xoay xở được. Giả Bảo Ngọc đã từng nói: Nước tự chảy
xuôi theo dòng còn bầu thì tự trôi. Cho dù nước chảy như thế nào thì bầu cũng
không sao tự chủ để lựa chọn phương hướng được. Tuy nhiên rốt cuộc cái bầu thân
phận quá nhẹ sẽ bị dòng nước cuốn đi. Thân phận của Lâm Đại Ngọc chỉ là một nữ
nhi không cha không mẹ nên không thể nắm được vận mệnh của bản thân mình trong
tay. Vậy liệu Giả Bảo Ngọc có nắm được vận mệnh của mình được chăng? Nó vốn dĩ
bị hoàn cảnh vận mệnh sắp đặt từ trong cõi vô hình và nó đã trực tiếp tiếp xúc
với bi kịch đầy thống khổ như trong tác phẩm “Hồng Lâu Mộng” mô tả.
Vận mệnh đám chị em phụ nữ trong tác phẩm Hồng Lâu Mộng cũng
không có kết cục có hậu. Điều này cũng giống như đạo gia Chân Sĩ Ẩn đã nhận
xét: Thân phận những người phụ nữ quý tộc đều từ trong bể khổ oan tình gây ra.
Từ xưa đến nay nếu người phụ nữ nào không phạm vào chữ “dâm sắc” thì
cũng bị rơi vào chữ “oan tình”. Tác giả đã khá nhấn mạnh đến chữ “tình” của
phụ nữ khác với đàn ông. Một khi thân phận của người phụ nữ đã bị chữ “tình”
lôi kéo thì nó cũng giống như cây khô gặp lửa cháy thiêu đốt. Vậy cần gì phải
có một lần va vấp trong trần thế? Hay họ muốn nhận lấy nỗi khổ chốn thế gian
phàm tục như vị tiên trong cảnh giới Thái Hư Không đã từng biểu lộ: “Vạn sắc
đồng quy về bi ai/ Ngàn hồng chuốc lấy một lần khóc”. Đây cũng chính là tâm
trạng những vị công tử luôn lấy sự nghiệp cúc cung tận tuỵ vì cái đẹp của nữ
nhi khi phải khóc vì chữ tình của mình. Duy nhất chỉ có người hiểu loại tinh
thần này mới có thể tĩnh hoá được Giả Bảo Ngọc và cứu thoát được linh hồn anh.
Sau khi Giả Bảo Ngọc đã về
cảnh giới Thái Hư Không thì tự bản thân đã thấu ngộ nguyên lý nhân quả của quá
khứ - hiện tại - tương lai. Tào Tuyết Cần viết “Hồng Lâu Mộng” như một câu
chuyện lạc từ cõi mê đến bến bờ giác ngộ. Các tình tiết thực hư trong tác phẩm vừa hợp
tình lại vừa hợp lý. Ví dụ đoạn tả Giả Bảo Ngọc đứng trong tuyết bái biệt Giả
Chính như sau: Tuyết đang rơi xuống sầm sập, không may cho Giả Bảo Ngọc làm
thân sinh ra là một cậu công tử nơi khuê các chỉ biết lấy buồn làm vui. Từ đâu
đó trong cõi hồng hoang vọng lại câu ca: “Ta ở đâu bây giờ... Từ
một hòn đá linh dưới chân một ngọn núi ta đã ngao du chốn nhân gian đậm sắc đậm
tình… Cảnh giới bồng lai tiên cảnh Thái Hư Không… mênh mông xa vời…biết tìm về
nơi đâu” .
Nói chung, có thể tóm lại vài nét chính
về con đường đi từ si mê đến bến bờ giác ngộ trong “Hồng Lâu Mộng” như sau:
- Cốt truyện xoay quanh những con người đi từ mê ngộ - đầu
thai - giải thoát: Viên đá Nữ Oa bỏ lại là vật thiêng, một ngày nghe
nhà sư và đạo sĩ nói đến chuyện vinh hoa phú quý dưới hồng trần mà
bất giác động lòng phàm tục, trở thành “si”, xin hai vị sư phụ “mang
đệ tử xuống cõi trần cho đệ tử hưởng ít năm giàu sang êm ấm”.
- Thông thường, ứng với cốt truyện người cõi tiên, vật thiêng
đầu thai xuống phàm trần rồi tỉnh ngộ trở về tiên giới là không gian
thiêng – tục – thiêng. “Hồng lâu mộng” cũng khởi đầu từ không gian huyền
thoại trên đỉnh Vô Kê – núi Đại Hoang với câu chuyện Nữ Oa luyện đá
vá trời. Tuy nhiên, tác phẩm không khép lại ở không gian thần tiên và
cũng không nói đến nhân vật chính. Cuối truyện là cảnh Giả Vũ Thôn
nằm ngủ say trong lều cỏ ở cửa sông Giác Mê, bến Cấp Lưu rồi chẳng
biết bao lâu sau, Không Không đạo nhân đi qua, xác nhận chuyện “Thạch
đầu ký”. Kết lại là lời bộc bạch của tác giả: “Té ra toàn là chuyện bày
đặt viển vông cả. Không những người làm không biết, mà cả người đọc
cũng không biết nữa. Chẳng qua chỉ là thứ văn chương du hý, để cho
thích thú tính tình mà thôi...”. Cái kết đó làm ý nghĩa giáo
huấn trong “Hồng lâu mộng” đậm nhưng không lộ, yếu tố hoang đường được
tưởng chỉ như là câu chuyện “bịa” để mua vui chốn nhân gian, tiểu
thuyết mang màu sắc hiện đại hơn.
- Kết cấu mộng – thực đan xen: một kiểu kết cấu quen thuộc
trong văn học Á Đông, do “ảnh hưởng của biến văn Phật giáo đời
Đường đối với sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Trung
Quốc…”. Trong “Hồng Lâu Mộng”, có sự đan xen giữa hai thế giới
mộng - thực trong suốt phần thân truyện. Nhân vật có thể đi lại giữa
hai thế giới qua phương tiện là những giấc mơ. Chẳng hạn như Giả Bảo
Ngọc của cuộc đời trần tục đã hai lần đến Thái Hư Không (hồi 5 và
hồi 116), một lần đến cõi địa phủ (hồi 98).
- Kết cấu mộng trong mộng: “Hồng Lâu Mộng” là một giấc mộng
lớn, trong đó bao trùm rất nhiều giấc mộng nhỏ khác. Trong “Hồng Lâu
Mộng” có tất cả ba mươi hai giấc mơ. Trong tám mươi hồi đầu do Tào Tuyết Cần
viết có hai mươi giấc mơ, trong bốn mươi hồi do Cao Ngạc viết có mười hai
giấc mơ.
- Ngoài ra, còn cần kể đến hiện tượng đồng mộng. Có những giấc
mộng không chỉ đến với một nhân vật, mà cả hai người cùng mơ thấy
nhau, giấc mộng cùng một nội dung. Đó là giấc mộng của Giả Bảo
Ngọc và Chân Bảo Ngọc ở hồi 56, và mộng của Đại Ngọc và Bảo Ngọc
ở hồi 82. Hiện tượng “đồng mộng” có ý nghĩa để xác thực mộng không
hoàn toàn là ảo. Giả bảo Ngọc và Chân Bảo Ngọc không phải chỉ mộng
thấy nhau, mà còn thoát hồn đến thăm nhau.
“Hồng lâu mộng” là giấc mộng về chốn lầu son gác tía nơi
phủ Ninh - Vinh phồn hoa tột bực, nó là tập hợp của muôn vàn những giấc mơ
của con người trong xã hội phong kiến đầy mâu thuẫn, rối ren và mục nát, mà
trước hết là mộng giàu sang, vinh hoa phú quý. Tại sao đạo sĩ và
hòa thượng không đem Thông linh bảo ngọc cho nhập vào một người ngoài
chốn lầu son gác tía, sống đời thanh bần? Là bởi vì lòng phàm của
đá thiêng trước hết là nỗi ham mê vinh hoa, hưởng lạc nơi trần thế.
Đó cũng chính là ham muốn chung của con người trên thế gian. Chỉ khi
trải qua hết vinh hoa tột bực, mới thấy hết sự vô nghĩa của kiếp
người, lòng mới không còn khao khát, thèm muốn, si mộng. Mộng lầu
hồng từ chỗ vinh hoa đến suy tàn chỉ trong chớp mắt, một nhà trâm anh
thế phiệt bỗng chốc tan hoang suy kiệt, mới thấy đời người có đó
rồi không chỉ như bóng câu qua cửa, có tụ ắt có tan, lúc có ắt có
lúc không và cái có đó chỉ là mộng ảo.
Thần Anh vì si mộng, hoá kiếp làm chàng Giả Bảo Ngọc đa
tình, xung quanh có bao nhiêu người phụ nữ tài sắc, gây ra không biết
bao nhiêu mối tình oan nghiệt. Bảo Ngọc đã làm rơi lệ không biết bao
nhiêu người con gái, tuy không trực tiếp, song đã gián tiếp làm khổ
từ Đại Ngọc, Kim Xuyến, Tình Văn, đến Tập Nhân, cả Bảo Thoa, và cũng
không trừ “người ngoài cửa” như Diệu Ngọc. Cũng chính vì tình ái quá dồi
dào mà Bảo Ngọc đã đi từ chữ “Sắc” đến ngộ hiểu chữ “Không” để rồi kết cục trở
thành người xuất gia, không vấn vương tình ái, vinh hoa. “Hồng lâu mộng”
là truyện về mộng, nhưng lại phản ánh một sự “tỉnh mộng” hoàn
toàn.
Như vậy ta thấy rõ, kết thúc của Hồng Lâu Mộng chính là khép lại
của một giấc mộng lớn – giấc mộng của cả một kiếp người, khép lại “ý dâm”, cái
nghiệp si tình đau thương của chàng trai họ Giả, từ si mà đến ngộ, từ ngộ thoát
tục về niết bàn, đó là đạo. Điểm nhìn của giấc mộng lầu hồng có giá trị tư
tưởng sâu sắc: Nhận thức được cuộc đời là hư vô, nhận thức được vạn vật là đổi
thay, biến chuyển, nhận thức được không gì là trường tồn mãi mãi, đó là đã nhìn
thấy được cái bản chất thật sự của đời sống.
Thế nhưng… kết thúc giấc mộng, Bảo Ngọc thì lên tiên, còn người
đọc vẫn ngẩn ngơ hoang mang như đứng giữa ngã ba đường. Nếu “trần gian vốn là
mộng, thực hư cũng là mộng, say mộng hay tỉnh mộng, cũng là mộng mà thôi”, nếu
cả cuộc đời này là mộng ảo, là huyễn tưởng, nếu tất cả chỉ là hư vô, thì cuối
cùng con người ta sẽ sống trong cuộc đời này như thế nào, sẽ vin vào đâu để
sống. Và rằng, cả một cuộc đời phong tình với biết bao kỉ niệm, biết bao cảm
xúc, biết bao buồn vui, chẳng lẽ không có chút nghĩa lý nào? Rõ ràng, người đọc
chẳng thể chờ để được lên tiên như Giả Bảo Ngọc, họ chỉ có một cách là tiếp tục
sống giữa cõi trần thế này (nếu không thể tìm lấy cái chết), mà để sống, họ
buộc phải tìm được một cách ứng xử, một thái độ sống.
Cuộc đời vốn hư vô, vậy ta
nên sống như thế nào trước những hư vô đó?
Đó chính là một câu hỏi lớn đặt ra ở cuối tác phẩm, mà dường như
tác giả vẫn còn để ngỏ.
Về chủ đề “cuộc đời là vô thường” (luôn biến động, luôn thay đổi,
có được sẽ có mất, đến rồi đi, sống rồi chết…) văn học thế giới cũng có nhiều
tác phảm đề cập đến, chúng ta thử khảo sát qua một vài ví dụ. Thơ Thiền lý mang
triết lý thiền tông cũng nhận thức rất rõ ràng về cái vô thường của cuộc đời:
“Xuân qua
trăm hoa rụng
Xuân tới
trăm hoa tươi
Trước mắt
việc đi mãi
Trên đầu
già tới rồi”
(Cáo tật thị chúng – Mãn giác thiền sư)
Nhà thơ nhận thức rất rõ sự biến đối không ngừng của sự vật và
thời gian. Triết học thiền tông xoay quanh “chân không diệu hữu” (chữ không
chân thực có điều kì diệu). Vạn vật đề là “không”, có chung một bản thể, những
gì ta cảm nhận bằng giác quan chỉ là những hiện hữu rất khác nhau của một bản
thể đó mà thôi, tất cả rồi sẽ trôi qua, sẽ đổi thay, sẽ biến mất. Vạn vật sinh
ra rồi sẽ mất đi, có rồi sẽ thành không, sẽ trở thành hư vô. Tuy vậy, nhận thức
được điều đó không phải để bi lụy, không phải để tuyệt vọng, không phải để thả
trôi cuộc đời, mà nhận thức được điều đó để càng phải sống, phải trân trọng
từng phút giây, từng khoảnh khắc đời sống, như Mãn giác thiền sư trước lúc viên
tịch vẫn cảm nhận được vẻ đẹp tinh tế trắng ngần của cành mai:
“Chớ bảo
xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai”
Đêm qua sân trước một cành mai”
Vì cuộc đời luôn biến động, vạn vật tồn tại có khi chỉ trong một
khoảnh khắc; nhưng dù chỉ là một khoảnh khắc thôi thì đó cũng nên là khoảnh
khắc tốt đẹp nhất, ý nghĩa nhất, đáng sống nhất. Đó chính là một cách ứng xử
tích cực mà thơ Thiền Lý Trần đã chỉ ra cho bạn đọc.
Chúng ta có thể khảo sát một bài thơ khác rất gần với chủ đề “giấc
mộng” của Hồng Lâu Mộng:
“Trời xanh nước biếc muôn trùng,
Một thôn sương khói, một vùng dâu đay.
Ông chài ngủ tít ai lay,
Quá trưa tỉnh dậy, tuyết bay đầy thuyền.”
Một thôn sương khói, một vùng dâu đay.
Ông chài ngủ tít ai lay,
Quá trưa tỉnh dậy, tuyết bay đầy thuyền.”
(Ngư nhàn – Không lộ
thiền sư)
Không gian rộng lớn trời xanh nước
biếc, một thôn sương khói một vùng dâu đay vừa là tả thực, nhưng nó vừa gợi đến
cái vô biên của vũ trụ của đất trời, mà đối nghịch với cái vô biên đó chính là
cái hữu hạn nhỏ bé của đời người. Chính sự đối lập giữa cái vô tận và cái hữu hạn,
cái bao la và cái nhỏ bé, vũ trụ và kiếp người đã gợi đến những mất mát, kiếp
người hữu hạn giữa vũ trụ này, rồi cũng sẽ mất đi. Ấy vậy, ông chài vẫn ngủ
tít. Trạng thái “ngủ tít” không chỉ là một giấc trưa thông thương, mà nó là ẩn
dụ cho giấc u mê giữa cuộc đời, cuộc đời hữu hạn nhưng con người mê vẫn mê đắm
lạc lối, không hay biết thời gian trôi đi, cuộc đời đang dần mất. Câu thơ kết
thúc là một ý tưởng đột ngột:
“Quá trưa tỉnh dậy, tuyết rơi đầy thuyền”
Để rồi một lúc nào đó ta tỉnh thực,
chợt ngẩn ngơ vì một ánh tuyết trắng ngần!
Vẻ đẹp vĩnh cửu của cuộc đời có khi
chỉ chớp nhoáng trong một khoảnh khắc. Cuộc
đời biến thiên thì biến thiên, nhưng dẫu sao từng khoảnh khắc đều có ý nghĩa của
nó, và con người, giữa cái hư vô của cuộc đời, vẫn tìm được những ý nghĩa riêng
trong cuộc đời mình.
Các tác phẩm văn học Úc cũng đề cập
đến những biến đổi không ngừng của cuộc đời, có nét tương đồng trong hai tác phẩm
“Tiếng chim hót trong bụi mận gai” của Colleen Mcculough và “Mọi dòng sông đều
chảy” của Nancy Cato. Cả hai tiểu thuyết đều kể về cuộc đời của nhân vật từ lúc
còn là một cô bé cho đến khi đã già, cả hai tiểu thuyết đều trải dọc theo thời
gian của cả một đời người, và ở cuối cùng của tiểu thuyết, Meggie đã già và
Philadelphia đã già, khi nhìn nhận lại cuộc đời mình, đều nhận ra rằng cuộc đời
luôn biến động, luôn biến thiên không ngừng.
Cả cuộc đời của Meggie có thể xem
là một bài ca dữ dội và bi tráng trong cuộc chiến chống lại chúa Trời. Nếu việc
giành lấy cha Ralph khỏi tay Chúa là vấn đề của tôn giáo, thì việc Dan (đưa con
mà Meggie đã cướp đi khỏi Chúa) mất đi, “bị Chúa đòi lại” (theo cách nói của
Meggie) lại là vấn đề con người chống lại sự mất mát, chống lại sự thay đổi, chống
lại quy luật biến thiên của cuộc sống. Chúa là gì? Chúa chẳng qua cũng là một
cách để con người lí giải những quy luật khách quan của cuộc đời. Cái chết cũng
là Chúa. Mất mát cũng là Chúa. Và trong cuộc chiến thứ hai này, dẫu Dan đã mất
đi, nhưng dường như Meggie đã giành chiến thắng. Hay nói cách khác đi, Meggie
đã tìm thấy Chúa cho riêng mình khi nhận ra và chấp nhận những quy luật của cuộc
đời, và, dẫu cho đau đớn đến tận cùng, cũng có thể đối mặt và chấp nhận mất
mát. Sự chấp nhận đó rất kịp thời và lí trí, đã cho Meggie sức mạnh để ở bên
Justine, đứa con gái mang “mặc cảm của người sống sót”, giúp con vượt qua và
giành lấy hạnh phúc của đời mình. Như vậy, ba thê hệ phụ nữ trong gia đình
Meggie cuối cùng cũng có người có thể giành được hạnh phúc. Và như vậy, đến cuối
cùng, Meggie không bao giờ phải tiếc nuối vì bất kì điều gì.
Tác phẩm kết thúc một cách thanh
thản, và chân lý về sự biến đổi cũng được cất lên:
“Meggie đặt bức điện
xuống bàn, hai mắt mở to nhìn biển hoa hồng mua thu ngoài cửa sổ. Hương thơm
của hoa hồng, tiếng ông vo vo giữa những bông hồng. Lại thêm râm bụt, những cây
hồ tiêu, nhưng cây khuynh diệp kì ảo và hoa giấy quấn quít leo cao trên những
thân cây. Khu vườn đẹp biết bao, sao mà tràn trề sức sống. Bao giờ ta cũng
thích nhìn những mầm non nhú ra, nhìn mọi vật tươi nở, đổi thay, tàn héo… và
những mầm mới nảy nở, vẫn cái vòng tuần hoàn vĩnh cửu ấy không ngừng diễn ra…
… Hãy để những con
người mới lập lại cái vòng tuần hoàn. Chính ta đã xếp đặt số phận của ta như
thế, ta không đổ lỗi cho ai. Và không tiếc nuối về một phút nào cả.”
Thông
điệp đưa ra ở đây là một thông điệp rất sâu sắc: Cuộc đời của ta là sự lựa chọn, số phận của ta là do ta xếp đặt, mỗi
hành động, mỗi chọn lựa sẽ định nghĩa ta là ai, và sẽ làm nên cuộc đời ta. Như
vậy thì, đừng nên hối tiếc.
Cách
ứng xử ở đoạn cuối tác phẩm “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” là một cách ứng
xử rất hiện sinh. Và thậm chí sự lựa chọn ấy còn được cụ thể hóa, còn được nâng
lên một tầm cao hơn:
“Con
chim mang chiếc gai của bụi mận cắm vào ngực theo quy luật bất di bất dịch của
thiên nhiên; bản thân nó không biết sức mạnh nào buộc nó lào vào mũi nhọn và chết
mà vẫn hót. Lúc mũi gai xuyên qua tim nó, nó không nghĩ đến cái chết sắp đến,
nó chỉ hót, hót cho đến lúc mất tiếng, đứt hơi. Nhưng chúng ta, khi lao ngực
vào bụi mận gai, chúng ta biết. Chúng ta hiểu. Tuy thế ta vẫn lao ngực vào bụi
mận gai. Sẽ mãi mãi như thế”.
Cách
ứng xử tích cực chính là sự dấn thân. Dám sống, dám lựa chọn,
dám quyết định, dám hạnh phúc và dám... đau đớn. Dám lao vào bụi gai đau đớn và
chết, cũng chính là dám cất lên tiếng hát hay nhất thế gian này. Bởi vì “những tất cả những gì tốt đẹp nhất chỉ có
thể có được khi ta chịu trả giá bằng nỗi đau khổ vĩ đại”.
Với “Tất cả dòng sông đều chảy”, bản thân cái tên cũng đã gợi đến
sự vô thường của đời người. Hình tượng dòng sông là hình tượng trở đi trở lại
trong tác phẩm, gắn liền với cuộc đời nhân vật chính, dòng sông chính là cuộc
đời lớn mà mỗi con người là một phân tử nước bé nhỏ. “Không ai tắm hai lần trên
một dòng sông” – câu nói này có lẽ phù hợp với triết lý của tác phẩm. Kết thúc
của tác phẩm thể hiện rõ tư tưởng đó:
“Bà đưa đôi mắt xanh mờ nhìn lên vầng
dương ấm áp. Cái đập chắn sóng bằng đá phía trên ngăn không cho bà nhìn thấy
chân trời. Nước chỗ này nông và ấm. Một đợt sóng nhẹ lướt tới, đập vào đùi bà.
Lại một đợt khác. Bà cảm thấy cát chạy khỏi các ngón chân bà mỗi khi nước rút.
Bà chờ đợt sóng mới, người tình xưa đó: sóng đong đưa, dâng lên và rút đi, một
nhịp điệu từ ngàn đời.
Đây là cuộc sống, không là cái chết,
mặc dù biển cả là nơi kết thúc của những con sông chảy ngoằn ngoèo. Cơ thể, cá
nhân, kí ức có thể mất đi trong đại dương vô thức mênh mông, từ nơi đây dòng
nước sẽ lại hình thành.
“Thời gian như dòng nước trôi mãi mãi
Mang đi xa những đứa con thân yêu của
mình…”
Đấy là bài hát họ thường hay cùng ca ở
quê nhà, và thật xa xưa, bà quỳ bên cạnh mẹ trên cái gối màu đỏ trong nhà thờ…
Nắng lấp lánh trên mặt nước làm cho bà liên
tưởng đến cái chói lòa của băng tuyết. Mỗi khối thủy tinh đó tỏa ra ánh màu
xanh nhàn nhạt, từ nơi đáy vọng đến những âm thanh tí tách nhè nhẹ trong trẻo
như pha lê và dìu dặt như tiếng chuông. Bà nghe như thấy mình đang ở trên dãy
núi Alp ở Úc. Từ nơi đây nảy sinh một dòng suối nhỏ, chảy lặng lẽ dưới tần băng
tuyết; và tất cả dòng sông đều chảy về biển cả.
(Tất cả dòng sông đều chảy – Nancy
Cato)
Philadelphia nhìn thấy trong sự biến thiên của đời sống là một
vòng tuần hoàn, cho dù tất cả luôn biến đổi, dẫu rằng vạn vật rồi cũng mất đi
và con người cũng đi vào cõi chết, nhưng bên cạnh đó những điều mới sẽ xuất
hiện, những con người mới lại sinh ra, lớp này kế cận lớp kia, người đi trước
trở thành bậc nâng đỡ lớp người đi sau. Delie nhìn thấy một sợi dây vô hình và thiêng liêng nối kết
giữa mẹ bà, bà, con gái bà, và cháu gái bà, một sự nối kết vô hình mà vô cùng
chặt chẽ. Nhìn cuộc đời theo cách như
vậy cũng là một cách tích cực, khi ta biết mình ở đâu trong mắt xích tiếp nối
không ngừng ấy, ta sẽ có cách ứng xử nhân văn với thế hệ trước ta, và thế hệ kế
cận ta.
Tóm lại, điểm qua một vài
ví dụ, ta thấy rằng ở kết thúc “Hồng lâu mộng” dường như còn thiếu vắng một
giải pháp. Với
giấc mộng công danh, ông đã nhìn nhận xác đáng bộ mặt thật của xã hội và đưa ra
cách ứng xử là tránh xa nó. Nhưng với ái tình (cụ thể qua “ý dâm” của Giả Bảo
Ngọc), từ sắc thành không, lẽ nào sống có thể không yêu? Con người không thể
sống mà không yêu ai, vậy lẽ nào yêu thương cả một đời người hóa ra chỉ là vô
nghĩa? Ở đây hẳn còn nhiều điều đáng bàn.
Nên đánh giá hiện tượng này như thế nào? Nếu nói rằng đó là hạn
chế tư tưởng của tác giả, thì e rằng còn phiến diện. Tào Tuyết Cần chắc chắn không thể vượt qua được hạn chế tư tưởng của
thời đại mình, hạn chế xã hội của thời đại mình. Vả lại, vấn đề kết thúc tác
phẩm do Cao Ngạc viết (bản thân Cao Ngạc cũng chịu sự chi phối của xã hội và tư
tưởng thời đại) cũng không phải không ảnh hưởng đến cách kết thúc chuyện.
Theo ý kiến chủ quan của người viết, có lẽ hãy khoan đánh giá kết
thúc “tu tiên” là một bế tắc và hạn chế về tư tưởng, mà hãy nhìn nó trên mặt
tích cực: Kết thúc này đã đóng góp cho
chúng ta một cách nhìn sâu sắc về vô thường, về chân lý đổi thay của cuộc sống.
Việc đóng góp một cách nhìn cũng đã là một đóng góp quý giá. Từ cái nhìn đó, tư bản thân mỗi người sẽ có
những câu hỏi về cách sống của mình, và tự tìm thấy câu trả lời thích hợp sau
quá trình sống, trải nghiệm, sau quá trình đọc, ngẫm nghĩ, tích lũy.
Như nhà văn người Ý Claudio
Magrid đã từng nói: “Văn chương không cần những câu trả lời mà nhà văn đem lại,
văn chương chỉ quan tâm đến những câu hỏi mà nhà văn đặt ra, câu hỏi này luôn
rộng hơn bất kì câu trả lời cặn kẽ nào”. Tào
Tuyết Cần (và Cao Ngạc) đã cho chúng ta một câu hỏi, giấc mộng lầu hồng chính
là một gợi ý, và chúng ta, mỗi chúng ta, có nhiệm vụ phải tìm thấy một đường đi
cho riêng mình.
II.
“Ý dâm”: Phản đề với xã hội phong kiến.
Không
phải ngẫu nhiên mà Hồng Lâu Mộng được cho là một trong tứ đại kì thư của Trung
Quốc. Nếu như Tây Du kí là hành trình
mang nặng yếu tố tôn giáo, Tam quốc diễn
nghĩa, Thuỷ hử đề cập đến mảng đề tài chiến tranh trong xã hội bấy giờ thì Hồng
lâu mộng là sự thể hiện những tư tưởng của thời đại: tinh thần dân chủ, tinh thần
phê phán đời sống xã hội phong kiến mục nát, phê phán những giáo điều cổ hủ đã
ăn sâu bén rễ hàng ngàn năm, đòi tự do yêu đương mưu cầu hạnh phúc.
Xã
hội phong kiến lúc bấy giờ đang đi vào suy thoái và tất yếu là những đạo lý bây
lâu nay luôn là lẽ sống cũng bị ảnh hưởng trầm trọng. Quan niệm về chí làm trai
phải gắn chặt với Tam cương ngũ thường,
là thân gái phải biết Tam tòng tứ đức nay đã quá xưa cũ. Ý dâm trong Hồng lâu mộng,
không phải là để chỉ điểm một kẻ háo sắc, dâm ô mà là một kẻ si tình như lời
tiên báo : “Dâm tuy một lẽ, nhưng có ý
khác. Ví như kẻ thích dâm ở đời, chẳng qua là ưa thích nhan sắc, ưa hát múa, cười
cợt không chán, mây mưa không kể ngày giờ, luôn luôn tiếc không đủ gái đẹp trên
đời để thỏa cái hứng thú chốc lát của mình, những người như thế chỉ là vật ngu
xuẩn, lạm dụng cái dâm ngoài da mà thôi. Còn như công tử, phận trời sinh ra đã
sẵn một nghiệp si tình, bọn tôi cho là ý dâm. Duy hai chữ "ý dâm", chỉ
có thể lấy tâm mà lĩnh hội, chứ không thể bảo lấy miệng cho nhau được, chỉ có
thể lấy tinh thần mà thông cả chứ khôn thể công tư có riêng hai chữ đó”
è Một phản đề đối với
quan niệm về nam tử truyền thống, một sự nổi loạn phản kháng xã hội.
Trong
tác phẩm ta thấy rõ được hai tuyến nhân vật mang hai luồng tư tưởng trái ngược
nhau. Tuyến thuộc nhân vật tiến bộ đại diện cho tinh thần dân chủ là Giả Bảo Ngọc
và Lâm Đại Ngọc, tuyến nhân vật cũ, lạc hậu của chế độ phong kiến thối nát tiêu
biểu là Giả Chính, Vương Hy Phượng.
Những
kẻ thuộc lực lượng cũ mang tư tưởng chính thống, có thế lực, có địa vị trong
gia đình, xã hội, chịu ảnh hưởng sâu nặng của tư tưởng Nho gia, theo đuổi con
đường khoa cử, tôn sùng đạo lí sách vở thánh
hiền. Lực lượng này rất đông, thế lực mạnh. Giả Chính, Giả Nho ra sức dạy
dỗ mong Bảo Ngọc học hành đỗ đạt thành
tài. Có lúc Giả Chính đã mạnh tay đánh con “đánh
chết cái thằng nghịch tử”
Trong khi đó, Bảo Ngọc trốn học lêu lổng. Ngay
khi Bảo Ngọc còn nhỏ, Giả Chính thử tài con, cho Bảo Ngọc chọn một trong số đồ
chơi; nào ngờ Bảo Ngọc chọn trân vòng, phấn sáp.
Giả Bảo Ngọc là một con người cô
đơn và lạc lõng trong xã hội bấy giờ. Được sinh ra, lớn lên
trong cái lồng kính quý tộc đầy cao lương gấm vóc, Bảo Ngọc ngay từ bé đã được
dạy đọc sách thánh hiền, học cách dùng gia giáo, thi giáo, lễ pháp... để duy
trì và củng cố những tư tưởng cố hữu, lạc hậu của tầng lớp thống trị phong kiến.
Giả Bảo Ngọc bị mất tự do, cảm thấy sâu sắc điều đó, nên lúc nào anh cũng vùng
vẫy để tìm lối thoát, tìm cách phán kháng lại. Như một con chim khao khát trời
xanh rộng lớn bị nhốt vào cái lồng vàng chật hẹp, Giả Bảo Ngọc luôn cảm thấy bức
bối và bế tắc với cuộc sống hiện tại. Anh lục lọi sách vở, đi vào triết học cổ,
đi vào “tham thiền ngộ đạo” nhưng cuối cùng vẫn không thể tự giải phóng mình bằng
sự con đường ấy. Cuộc sống được tiếp nối với những tháng ngày lẩn quẩn, loanh
quanh. Cuối cùng, Bảo Ngọc tỏ thái độ hoài nghi những gì “thánh hiền” đã viết,
đã soạn, cho đó là “soạn bậy”, là “bịa”, là “nói tầm bậy”. Đối với đạo đức
phong kiến mà cái cao nhất là “tôi trung con hiếu”, “sát thân thành nhân”, Bảo
Ngọc đã dám nói những lời “cách mệnh”:
“Những bọn mày râu dơ bẩn, chỉ biết “quan văn chết vì lời
can gián, quan võ chết vì đánh giặc”, là hai cái chết của kẻ đại trượng phu,
thành ra chỉ làm rối lên, nào có biết đâu có vua ngu mới có bầy tôi chết vì lời
can gián; chỉ lo ra công đánh giặc, liều mình hy sinh, tương lai sẽ bỏ nước cho
ai. Thật là lời lẽ của kẻ “đại nghịch vô đạo”.
Tuy nhiên, đó
chỉ là ý nghĩ đột xuất trong nhất thời, còn bình thường, anh vẫn phải nép mình
trong lồng cũi tuân phục “di huấn thánh nhân”.
Với Giả Chính, Bảo Ngọc không bằng anh ( Giả
Châu) không kỳ tài được, Bảo Ngọc chỉ là một nghịch tử. Giả Mẫu, Vương phu
nhân, Tiết Bảo Thoa, Phượng Thư, Thám Xuân… thường khuyên nhủ BảoNgọc học hành,
thi cử, ra làm quan để làm tròn chữ hiếu. Với họ chỉ có học hành, thi cử đỗ đạt
thì mới xứng đáng là con hiếu, tôi trung. Giả Chính quý mến Chân Bảo Ngọc vì đó
là mẫu người theo quan niệm của ông ta: “số
là Giả Chính trông thấy diện mạo của Chân Bảo Ngọc giống hệt con mình, khi hỏi
đên văn chương anh ta đối đáp như nước chảy, nên trong lòng rất yêu mến, bèn
cho gọi Bảo Ngọc ra để khuyên răn…”
Ta thấy rõ, Giả Chính sống rập khuôn,
cứng nhắc theo lễ giáo phong kiến hủ lậu, ờ ngoài thì làm quan về nhà thì làm
chủ. Những người như Giả Mẫu, Vương Phu nhân, Hình phu nhân càng cổ hủ, lạc hậu.
Giả mẫu có thể cho phép Giả Liễn năm thê bảy thiếp “ bọn
trai trẻ chúng nó thấy gái khác nào mèo thấy mỡ, cấm đoán sao được bọn chúng”.
Nhưng lại bóp chết, chà đạp lên trên những tình yêu chân chính cao đẹp. Giả mẫu
luôn miệng khen Bảo Thoa, bởi nàng là người có đủ tư chất “ công, dung, ngôn, hạnh”,
biết chiều chuộng, lấy lòng mọi người. Còn thứ tình yêu tự do Giả Bảo Ngọc -
Lâm Đại Ngọc, trái với quan niệm “ cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” vốn ăn sâu
trong con người họ thì làm sao họ chấp nhận. Hồi 97, 98 đám cưới của Bảo Ngọc
là một minh chứng rất rõ nét và thể hiện
sự tàn bạo ghê gớm của lực lượng này. Trong lúc người cháu ngoại ốm yếu gần chết,
cô đơn lạnh lẽo ở quán Tiêu tương thì người ta vui vẻ, rằm rộ tổ chức đám cưới
cho cháu trai đang ngây ngô tưởng đó là
em Lâm. Không đoái hoài đến Lâm Đại Ngọc, trước khi chết, Lâm Đại Ngọc xót xa
nói với Tử Quyên: “ Em ơi! Ta ở đây không
có ai là bà con, thân ta vốn trong sạch, thế nào em cũng phải bảo họ đưa ta về!”.
Sự phản kháng xã hội còn rõ ràng hơn
trong cuộc hôn nhân của Bảo Thoa và Bảo Ngọc. Sự tinh ranh tùy thời của Bảo
Thoa không giúp nàng hiểu được tư tưởng phong kiến đó của nàng chính là hàng
rào ngăn cách ngày càng xa giữa nàng và Giả Bảo Ngọc. Bởi lẽ, Bảo Ngọc không
thích đọc sách theo quan điểm gia trưởng phong kiến áp đặt mà chỉ thích đọc
sách gọi là “Tập học bàng thư”, tức
là những sách do bách tính viết ra, không có tính chất quy phạm, ràng buộc. Bảo
Ngọc ghét nhất là thứ văn chương khoa cử, chàng vốn quyết tâm không theo con đường
cố đọc sách để thi cử, thăng quan tiến chức theo quy định của gia đình. Khi với
chàng theo làm quan là tuân theo những lý lẽ được quy định sẵn, là phá vỡ đi sự
công bằng mà chàng dành cho người phụ nữa. Chàng xem thường công danh phú quý,
thậm chí không thể tiếp nhận, đồng tình với loại người làm quan như Giả Vũ
Thôn. Chàng luôn đấu tranh chống lại khoa cử phong kiến, thì ngược lại Tiết Bảo
Thoa nàng luôn nuôi tư tưởng phong kiến, một tín đồ trung thành của xã hội
phong kiến. Nàng cho rằng con trai phải đọc sách để “giúp nước trị dân”. Những mưu mô tinh ranh xảo quyệt của Bảo Thoa
vẫn không thể nào dập tắt được ngọn lửa đấu tranh chống lại xã hội phong kiến
thối nát mà hình ảnh thu nhỏ là gia đình họ Giả, của Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc.
Chính vì thế, Bảo Ngọc giành tình yêu chân thành hơn cho Lâm Đại Ngọc bởi Đại
Ngọc không hề khuyên Bảo Ngọc luận bàn chuyện học, chuyện làm quan giúp nước trị
dân. Còn Tiết Bảo Thoa thông minh xinh đẹp thì bị Bảo Ngọc xem là một “con mọt ăn lộc”. Việc nàng cố duy trì
và bảo vệ chế độ phong kiến bao nhiêu thì càng làm cho khoảng cách giữa nàng và
Giả Bảo Ngọc càng xa bấy nhiêu. Giữa họ không cùng một tư tưởng cho dù họ cuối
cùng cũng lấy nhau. Ở đây hôn nhân giữa Tiết Bảo Thoa và Giả Bảo Ngọc “đã trở thành hành vi chính trị để phục vụ
cho lợi ích cá nhân” mà thôi.
Trong khi lực lượng mới tiến bộ còn
quá mong manh lại vấp phải sức phản kháng rất mạnh mẽ, kiên quyết của lực lượng
cũ nên tạm thời thất bại. Cả Giả Bảo Ngọc - Lâm Đại Ngọc đều không thích đọc thứ
sách “ nhảm nhí”, xem đó là cần câu cơm, thích cuộc sống tự tại, được tự do yêu đương nhưng không đến
được với kết quả của tình yêu Đại Ngọc ôm sầu mà chết, Bảo Ngọc nương nhờ chốn
của Phật. Hành động đó chứng tỏ sự thất bại của họ có một ý nghiã rất to lớn, là
sự phản kháng tích cực nhưng cũng có phần bế tắc.
Giả
Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc chính là những đại diện tiêu biểu cho tư tưởng phản nghịch
nhằm chống đối lại những ràng buộc, định kiến khắt khe trong quan niệm trọng
nam khinh nữ truyền thống, đồng thời họ khao khát được tự do trong tư tưởng,
trong tình yêu và hôn nhân. Họ giống nhau ở một điểm là đều
chán ghét khoa cử công danh, theo đuổi một cuộc sống tự do, chống lại
khuôn phép ràng buộc. Chính sự cảm thông và sẻ chia này đã giúp họ trở nên gắn
kết và tâm đầu ý hợp. Họ yêu nhau trong sự bất chấp, trong ý định phá vỡ mọi trật
tự để vươn đến tình yêu đích thực. Đó có thể xem là biểu hiện của cuộc đấu
tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa tư tưởng dân chủ sơ khai và tư tưởng phong
kiến.
Nhưng
sự thật nghiệt ngã và bất công của hiện thực đã gây ra bi kịch cho số phận của
họ - những con người không được quyết định tình yêu của mình.
Họ yêu nhau và muốn tiến đến hôn nhân cùng nhau thế nhưng điều này lại bị xem
là “tai họa” đối với gia đình họ Giả. Đôi trẻ với khát khao yêu thương tha thiết,
chân thành chưa kịp trao tặng nhau những lời hẹn ước, chưa được nếm mật ngọt
tình yêu, đã linh cảm thấy mật đắng của đời. Cuối cùng, Giả mẫu và bọn phu nhân
trong phủ họ Giả đã quyết định chọn Tiết Bảo Thoa cho Bảo Ngọc. Và một khi đã
chọn, họ đã nhẫn tâm theo kế “đánh tráo” của Phượng Thư. Bảo Ngọc cứ yên trí là
“cưới em Lâm”, đến lúc giở khăn che mặt, lại là Bảo Thoa; Bảo Ngọc lúc bấy giờ
mới giật mình trong bàng hoàng. Còn Lâm Đại Ngọc sau cơn ốm nặng, đã chết trong
niềm đau đớn, oán hận tột cùng. Nàng đốt thơ, đốt khăn tặng trong lúc cả nhà mừng
đám cuởí của người mình yêu. Kết thúc tấn bi kịch này, Bảo Ngọc trốn nhà đi tu;
và Bảo Thoa làm một người góa phụ trẻ đau khổ.
Xét về phương diện nội dung, cần
nhìn nhận và đánh giá những điểm mới mẻ, tiến bộ của tác phẩm so với tư tưởng của
thời đại xã hội lúc bấy giờ - tư tưởng phản đối những ràng buộc vô lý, bất công
của xã hội phong kiến đã chà đạp, đã tước đoạt hạnh phúc, tình yêu và tự do của
con người. Trước hết, đó là cách nhìn con người trong sự phát triển đầy
mâu thuẫn, sự phát triển biện chứng, có chiều sâu đầy kịch tính. Số phận và
tính cách của Bảo Ngọc đã được tác giả miêu tả không đơn giản, một chiều. Đó là
một quá trình đấu tranh gay go,quyết liệt của sự mâu thuẫn giữa khát vọng tự do
và sự ràng buộc nặng nề của gia đình và xã hội phong kiến. Đó là tình yêu chân
thành và quý báu như chính sinh mệnh của mình nhưng cuối cùng Đại Ngọc lại
buông xuôi trước những ràng buộc khắt khe và chấp nhận vô điều kiện theo sự sắp
đặt của người bề trên. Trước khi chết, Lâm Đại Ngọc oán giận, đau buồn đốt khăn
tặng, đốt tập thơ không phải là không có lý. Bảo Ngọc chưa bao giờ xứng đáng là
một trang “tu mi nam tử” có lý tưởng, kiên định. Vấp phải những mâu thuẫn nghiệt
ngã của thời đại, anh ta sinh ra đau thần kinh, mắc chứng “ngây”, cứ cười hì hì
suốt ngày. Điều đó càng đẩy sâu anh ta vào bi kịch. Cuối cùng giải pháp “đi tu”
- phản ánh sự từ chối, sự phản kháng yếu ớt - đã được anh ta chọn lựa. Đi thi
và thi đỗ cao để an ủi gia dình, rồi bỏ trốn đi tu, Bảo Ngọc đã đi hết sự phát
triển tính cách một cách hợp lý.
Không chỉ thế cái xã hội thối nát lúc ấy còn bị phơi bày qua sự đối chiếu
về “Ý dâm” trong sự đối sánh với “dâm” hay sự khác biệt trong “ý dâm” của Giả Bảo
Ngọc với cái dâm của các nhân vật nam khác trong Hồng lâu mộng
Giả Bảo Ngọc, chàng
trai si tình trong Hồng lâu mộng là một chân dung khác hẳn với các nhân vật nam khác. Không những khác với quan niệm đỗ đạt
làm quan của Giả Chính, của Chân Bảo Ngọc, mà còn là phép đối với sự dâm ô ti
tiện của những con người cùng họ là Giả Thuỵ , Giả Liễn.
Bảo
Ngọc ngay từ nhỏ đã được bên các chị em của mình, chàng thể hiện sự công bằng,
tôn trọng phụ nữ .
Dưới góc nhìn của nhân vật trung
tâm Giả Bảo Ngọc, người phụ nữ luôn được nâng niu, trân trọng như những kết
tinh trọn vẹn và toàn bích nhất mà tạo hóa mang lại.
Bảo Ngọc cho rằng:
“Xương thịt của con gái là do nước kết thành, xương thịt của con trai là
do bùn kết thành. Tôi trông thấy con gái thì người tôi nhẹ nhàng khoan khoái,
trông thấy con trai thì như phải hơi dơ bẩn vậy”.
Chẳng vì thế mà Bảo Ngọc luôn nâng niu, tôn trọng và đối xử rất mực
dịu dàng với những bậc nữ nhi và có thành kiến với nam nhi:
“Người thiêng hơn cả
vạn vật, bao nhiêu tinh hoa trong sạch của trời đất đều chung đúc vào con gái,
bọn con trai chỉ là hạng cặn bã, vẩn đục mà thôi”.
Giả Bảo Ngọc, một đại diện trí thức của tầng lớp quan lại, vương
giả trong xã hội đương thời và là một trong số ít nhân vật trong tác phẩm công
khai chống lại quan niệm “trọng nam khinh nữ”. Thậm chí, anh còn cho rằng tất cả
con trai là hạng thô tục, có cũng được, mà không cũng chẳng sao.Và những người
phụ nữ, những giai nhân của Đại Quan viên lại được xem là những bông hoa tỏa
ngát.
Tuy nhiên thật sự khó khăn khi phải chọn cho mình một người
con gái mà mình yêu. Giữa Đại Ngọc, Bảo Thoa, và cả Tập Nhân, mỗi người đều có
một vẻ đẹp riêng một tính cách, một tư tưởng riêng. Nhưng cuối cùng chàng vẫn
yêu và chọn cho mình người con gái hiểu chàng và biết chàng cần gì. Có lẽ là bất
công cho Bảo Thoa, nhưng suy cho cùng chính cô cũng ko hiểu được Bảo Ngọc. Tình
yêu của Bảo Ngọc xuất phát từ con tim, từ sự rung động và từ cái nghiệp kiếp
suy tình của mình, là sự trả nợ tình duyên được mệnh trời sắp sẵn. Ở Bảo Ngọc
anh nhận ra chính tình yêu mới có thể cứu rỗi cái xã hội đang sa đoạ này chứ
không phải mà mớ Tứ thư Ngũ kinh, không phải là con đường thì cử để phục vụ cho
một cái chế độ thống trị chắc chắn sẽ sụp đổ.
Giả
Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc chính là những đại diện tiêu biểu cho tư tưởng phản nghịch
nhằm chống đối lại những ràng buộc, định kiến khắt khe trong quan niệm trọng
nam khinh nữ truyền thống, đồng thời họ khao khát được tự do trong tư tưởng,
trong tình yêu và hôn nhân. Họ giống nhau ở một điểm là đều
chán ghét khoa cử công danh, theo đuổi một cuộc sống tự do, chống lại
khuôn phép ràng buộc. Chính sự cảm thông và sẻ chia này đã giúp họ trở nên gắn
kết và tâm đầu ý hợp. Họ yêu nhau trong sự bất chấp, trong ý định phá vỡ mọi trật
tự để vươn đến tình yêu đích thực. Đó có thể xem là biểu hiện của cuộc đấu
tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa tư tưởng dân chủ sơ khai và tư tưởng phong
kiến.
Nhưng
sự thật nghiệt ngã và bất công của hiện thực đã gây ra bi kịch cho số phận của
họ - những con người không được quyết định tình yêu của mình.
Họ yêu nhau và muốn tiến đến hôn nhân cùng nhau thế nhưng điều này lại bị xem
là “tai họa” đối với gia đình họ Giả. Đôi trẻ với khát khao yêu thương tha thiết,
chân thành chưa kịp trao tặng nhau những lời hẹn ước, chưa được nếm mật ngọt
tình yêu, đã linh cảm thấy mật đắng của đời. Cuối cùng, Giả mẫu và bọn phu nhân
trong phủ họ Giả đã quyết định chọn Tiết Bảo Thoa cho Bảo Ngọc. Và một khi đã
chọn, họ đã nhẫn tâm theo kế “đánh tráo” của Phượng Thư. Bảo Ngọc cứ yên trí là
“cưới em Lâm”, đến lúc giở khăn che mặt, lại là Bảo Thoa; Bảo Ngọc lúc bấy giờ
mới giật mình trong bàng hoàng. Còn Lâm Đại Ngọc sau cơn ốm nặng, đã chết trong
niềm đau đớn, oán hận tột cùng. Nàng đốt thơ, đốt khăn tặng trong lúc cả nhà mừng
đám cuởí của người mình yêu. Kết thúc tấn bi kịch này, Bảo Ngọc trốn nhà đi tu;
và Bảo Thoa làm một người góa phụ trẻ đau khổ.
Trái
ngược là Giả Thuỵ, một còn người dâm ô háo sắc, là một biểu tượng điển hình của
xã hội thối nát loạn luân lúc bấy giờ. Phượng Thư là vợ của Giả Liễn tức họ
hàng với Giả Thuỵ thế nhưng hắn vẫn có những tư tưởng xấu xa, Gặp Phượng Thư ở
nhà Giả Dung, hắn đã nổi tâm tà với những câu nói vẻ mời mọc: “Tôi muốn đến thăm
chị, nhưng sợ chị trẻ tuổi không chịu tiếp khách dễ dàng.” Biết được tâm tà của
Giả Thuỵ, Phượng Thư đã bày nhiều kế khiến Giả Thuỵ tiền mất tật mạng, từ đó hắn
lâm trong bệnh. Thế nhưng, hắn vẫn không chừa, nằm liệt giường mà vẫn còn mộng
mị đến Phượng Thư. Trong chiếc gương của một vị đạo sĩ, hắn thấy Phượng Thư vẫy
gọi. Đến khi chết mà dưới quần đầm đìa một vũng tinh lạnh buốt.
Giả
Liễn cũng không kém Giả Thuỵ, hắn đã có vợ mà còn là một cô vợ tài sắc vẹn toàn
thế nhưng lòng dâm dục vẫn không ngừng trỗi dậy. Bất chấp thân phận của mình, hắn
ta đã tằng tịu với vợ của Đa Quan- một tên đầu bếp trong phủ. “Thằng Đa chỉ cốt có rượu, có tiền, ngoài ra
vợ cũng mặc kệ. Vì thế người trong hai phủ Vinh, Ninh phần nhiều tằng tịu với ả.
Ả này dâm đãng khác thường, nên người ta đặt cho cái tên là cô "Đa"
.Giả Liễn đương lúc ngứa ngáy, ngày thường vốn đã say mê say mệt ả này, nhưng
trong thì sợ vợ, ngoài sợ bọn hầu yêu, nên không dám chờn vờn. Cô
"Đa" từ lâu cũng có tình ý với Giả Liễn, nhưng chưa có dịp thuận tiện;
nay thấy Giả Liễn dọn ra ngủ ngoài thư phòng, ả ta chẳng có việc gì cũng mỗi
ngày lượn đi lượn lại ba bốn lần.” Và rồi hắn bắt đầu những cuộc mây mưa với
ả. Nực cười ở chỗ hắn còn thốt lên : “Em là "bà chúa", chứ còn ai là "bà
chúa" nữa!”. Không chỉ dừng lại ở
những trò lén lút trong phủ, hắn còn vụng trộm cưới thêm dì Hai, mà giúp đỡ cho
hắn không ai xa lạ chính là những con người cùng một ruột: Giả Trân và Giả
Dung, chừng đó thôi cũng cho thấy rõ những con người trong xã hội bây giờ tha
hoá tới mức nào.
Hồng
Lâu Mộng có hai thế giới đối sánh:
“thế giới mộng tưởng” và “thế giới hiện thực” mà cụ thể là thế giới trong và
ngoài Đại Quan Viên. Thế giới lý tưởng Đại Quan Viên của 12 thanh nữ và chàng Bảo Ngọc
là thế giới lí tưởng của Hồng Lâu
Mộng . Đây mới là thế giới duy nhất có ý nghĩa. Đối với họ, thế giới bên
ngoài Đại Quan Viên coi như không tồn tại, nếu có cũng chỉ toàn những điều xấu
xa, tiêu cực mà thôi. Bởi vì bên ngoài Đại quan viên (ám chỉ Hội Phương Viên)
chỉ toàn những thói đời bẩn thỉu và trụy lạc.
Thế giới hiện thực trong
tác phẩm hiện lên không ít những chân dung biến chất và tha hóa về nhân phẩm,
họ là đại diện của những tư tưởng và định kiến khắt khe về sự phân biệt đẳng
cấp và cả giới tính trong xã hội.Giả Xá có thể xem là một trong những con người
nhơ bẩn nhất bên cạnh Giả Trân, Giả Liễn, Tuyết Bàn... Giả Xá ép cưới nàng hầu
Uyên Ương làm thiếp khiến nàng phải thắt cổ tự vẫn vì không chấp nhận được việc
phải lấy một kẻ dâm loàn làm chồng. Tập Nhân đã kết án Giả Xá:
“Ông lớn
háo sắc quá. Mặt sạch một chút là ông ta đã không tha rồi.”
Những
cảnh dâm loạn của Giả Liễn thường được đặc tả trong phim cho thấy bản tính dâm
ô cố hữu của bọn người sống nhàn nhã trên áp bức và bóc lột địa tô. Cuộc sống
trống rỗng khiến bọn chúng ngày đêm chỉ toàn nghĩ đến những chuyện giành giật,
lừa gạt, dâm dật, tự tử, tội ác... Một vài khuôn mặt lương thiện xuất hiện, đa
số đều thuộc tầng lớp dưới, như già Lưu, Tập Nhân... Phủ họ Giả vì thế mà không
thoát khỏi sự sụp đỗ tất yếu của nó. Đây chính là cách nói ẩn dụ giàu hình ảnh
về xã hội phong kiến thời mạt Thanh đã đi đến tận cùng khí số, chuẩn bị bước
tới hồi kết cuối cùng.
Vườn ở
phủ Đông trong Hội Phương Viên cũng là nơi bẩn thỉu, đúng như câu nói của nhân
vật Liễu Tương Liên:
“Trong phủ Đông nhà chúng mày, ngoài hai con sư
tử đá trước cổng phủ là sạch, còn thì đến mèo chó cũng bẩn cả”.
Trước khi
có Đại quan viên, rất nhiều việc lớn trong Hồng Lâu Mộng đều diễn ra ở Hội Phương Viên, đây là nơi bẩn
thỉu, nhơ nhuốc có tiếng, là nơi để các lão thiếu gia rượu chè hành lạc. Chỉ
cần xem cảnh tổ chức đánh bạc, uống rượu và dâm ô với hầu trai của bọn Giả Trân
là đủ biết. Đây cũng là nơi sinh ra những chuyện bất chính giữa Tần Khả Khanh
và Thuỵ Châu, giữa Hy Phượng và Giả Thụy.
Hội
Phương Viên là nơi ô uế của thế giới thực tại, đối lập với thế giới lí tưởng
thanh sạch Đại Quan Viên. Tào Tuyết Cần một mặt sáng tạo thế giới mộng tưởng,
muốn thế giới lí tưởng đó mãi mãi tồn tại giữa chốn nhân gian, mặt khác, ông
lạnh lùng miêu tả một thế giới hiện thực đối sánh với nó. Tất cả sức mạnh của
thế giới hiện thực đó liên tục tấn công phá huỷ thế giới lí tưởng.
Hồng Lâu Mộng miêu tả quá trình hình thành, phát triển và cuối cùng tan vỡ của thế giới lí tưởng Đại Quan Viên. Thế giới lí tưởng đó ngay từ đầu đã không tách rời khỏi thế giới hiện thực: Đại Quan Viên hoa thanh quả khiết vốn được xây trên cái nền bẩn thỉu Hội Phương Viên. Trong suốt quá trình 12 chị em thanh nữ vun đắp phát triển khu vườn, hoa thanh quả khiết của họ cũng không ngừng bị rình rập, bẻ phá bởi bàn tay nhớp nhúa từ bên ngoài.
Thanh khiết mọc lên từ ô uế, sau cùng cũng
đành rơi rụng giữa ô uế. Đó chính là ý nghĩa trung tâm của bi kịch Hồng Lâu Mộng. Đó là sự bế tắc của những
con người trẻ tuổi, khát khao lý tưởng sống mới nhưng cuối cùng đành bị khuất
phục bởi họ đang ở trong bóng đêm suy tàn của ngày cũ, chưa thể đứng trong áng
sáng ban mai của ngày mới, đó là yếu tố bi kịch của lịch sử trùm lên bi
kịch cuộc đời của tất cả các nhân vật.
è Tất cả đã phơi bày cái hiện thực xấu
xa, dâm ô, đáng khinh bỉ của một bộ phận không hề nhỏ trong xã hội lúc bấy giờ,
Đồng thời lên án tố cáo những con người ấy, gióng lên một hồi chuông cảnh báo về
sự sụp đổ của gia đình họ Giả cũng như của triều đình phong kiến lúc bấy giờ.
è Như vậy, “ý dâm” trong Hồng Lâu Mộng,
bên cạnh ý nghĩa về si-nghiệp-mệnh chịu ảnh hưởng của triết lý Phật giáo, thì
còn là một phản đề với chế độ phong kiến đương thời. Nghiệp tình ái của Giả Bảo
Ngọc, “ý dâm”, đối lập với “dâm” của những kẻ như Giả Thụy, Giả Liễn đã trở
thành một “tấm kính chiếu yêu” lột trần những xấu xa, giả dối, dâm ô, tha hóa của
xã hội đương thời. Đồng thời, cái “ý dâm” ấy còn khẳng định những tiêu chuẩn
giá trị mới, đó là khát vọng tự do hạnh phúc yêu đương, là tinh thần dân chủ,
là sự phủ định đối với “mả công danh” đương thời. Có lẽ đó cũng là ẩn ý trong lời
nói của tiên Cảnh Ảo khi nói với Giả Bảo Ngọc, đại ý, chúng tôi yêu công tử vì
công tử là người dâm nhất thế gian.
C.
KẾT
LUẬN
Hồng Lâu Mộng được
đánh giá là một trong bốn tứ đại kì thư đồ sộ và có giá trị lớn của văn học
Trung Quốc khi đã bao quát được những tư tưởng của thời đại: tinh thần dân chủ,
tinh thần phê phán đời sống xã hội phong kiến mục nát, phê phán những giáo điều
truyền thống đã ăn sâu, bén rễ hàng ngàn năm, đòi tự do yêu đương, giải phóng
cá tính, đòi bình đẳng và khát khao một lí tưởng sống mới. Chỉ với Hồng Lâu Mộng,
Tào Tuyết Cần đã được xưng tụng là "Shakespeare của Trung Hoa” - đó là vị
trí độc tôn, dẫu thiên truyện của ông còn sự góp sức của một nhà văn hậu thế là
Cao Ngạc. Gần 300 năm qua, câu chuyện về số phận của những con người trẻ tuổi
trong thời buổi suy tàn của xã hội phong kiến đã mê hoặc nhiều thế hệ độc giả
trên thế giới. Điều làm nên sự vĩ đại cho tác phẩm chính là do khả năng bao
quát các phương diện đời sống, nghệ thuật thuật và tư tưởng của tác giả. Hồng
Lâu Mộng là bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội phong kiến Trung Quốc trên
con đường suy tàn. Cái vẻ ngoài tôn nghiêm nề nếp không che đậy được thực chất
mục ruỗng của giới thượng lưu sống trong Giả phủ. Cuộc sống xa hoa, tư tưởng cố
hữu của giai cấp bóc lột và những mối quan hệ tàn nhẫn giữa họ với nhau đã đưa
Giả phủ vào con đường tàn tạ không cứu vãn được. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ của
xã hội Trung Quốc đời Thanh. Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc chính là những đứa con
"bất hiếu" của gia đình họ Giả, rộng hơn là của xã hội Trung Quốc
đương thời. Họ công khai chống lại quan niệm trọng nam khinh nữ truyền thống,
chán ghét khoa cử công danh, theo đuổi một cuộc sống tự do, chống lại khuôn
phép ràng buộc. Họ yêu nhau vì phản nghịch, càng phản nghịch họ càng yêu nhau.
Đó là hồi âm của cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa tư tưởng dân chủ
sơ khai và tư tưởng phong kiến. Khi đánh giá về Hồng Lâu Mộng, có ý kiến khen
ngợi rằng: “Hồng Lâu Mộng lập ý mới, bố cục khéo, từ ngữ đẹp, đầu mối rõ, khởi
kết kĩ, đan cài diệu, miêu tả thật, sắp xếp tài, kể việc thực, nói tình thiết,
đặt tên sát, dùng bút kín, cái tài tình thật không kể xiết. Hơn nữa chế giễu thì
được cái hậu của nhà thơ, khen chê thì có cái tài của sử bút, kể chuyện ma
không cảm thấy hoang đường, tả sự vật không cảm thấy chồng chất, không lời nào
tự mâu thuẫn, không việc nào bất trúng nhân tình. Ngoài ra như chúc tết mừng tuổi,
mừng thọ lo tang, xem bói bốc thuốc, thách rượu gá bạc, mất của gặp ma, bị cháy
gặp cướp, cho đến những việc vặt vãnh gia thường, tư tình nhi nữ, không có chuyện
gì mà không ghi đủ. Đến như cầm kì thi họa, y bốc tính mệnh, giải quyết rất
tinh, sắp đặt xác đáng. Nhưng đặc biệt tôi cho rằng không có gì tài khéo hơn là
thơ từ câu đối hoành phi, lệnh phạt rượu, câu đố đèn, kèm thêm văn từ, điểm diễn
hí khúc, không một chỗ nào là không ám hợp với ý chính, nhất bút song quan. Quả
là một cuốn sách không tiền tuyệt hậu, độc tuyển trên đời.” Hồng Lâu Mộng có thể
xem là phản quang những hồi ức của Tào Tuyết Cần về cuộc sống quý tộc đã tan vỡ
đó. Một mặt, đó là sự nhớ tiếc khôn nguôi những huy hoàng của vàng son lộng lẫy,
cảm thấy tất cả nhuốm màu thê lương, hư vô, tất cả đều xê dịch về phía bế tắc,
hủy diệt, tất cả đều đáng ân hận, và chỉ có thể cứu chuộc bằng hư vô, bằng siêu
hình và tôn giáo Nhưng mặt khác, từ trong cuộc sống nghèo khó hôm nay, quay đầu
nhìn lại thì cái khoảng cách lớn lao đó làm cho ông thấy được rõ hơn, khách
quan hơn, bình tĩnh hơn những gì ông đã thấy, đã nếm trái về cuộc sống thối nát
của giai cấp quý tộc và sự miêu tả khách quan "những quan hệ hiện thực”
này làm ông trở thành một nhà hiện thực. Chí ít thì về mặt đó, ông đã lay chuyến
được "niềm lạc quan về cái trật tự hiện tồn", và như thế, ông là sản
phẩm của một thời đại, đồng thời đã nhìn xa hơn thời đại.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình văn học Trung
Quốc – Tác giả Giáo sư Lương Duy Thứ
2. Mai
Quốc Liên: Lời giới thiệu, Hồng lâu mộng Tập 1. Nhà xuất bản Văn học. Hà Nội
2007 (nhóm dịch Vũ Bội Hoàng)
3. Bùi
Kỷ: Lời giới thiệu, Hồng lâu mộng Tập 1. Nhà xuất bản Văn hóa. Hà Nội, 1962
4. Lịch
sử văn học Trung Quốc (Nguyên - Minh - Thanh). Sở nghiên cứu Văn
học thuộc Viện Khoa học Trung
Quốc, Bắc
Kinh, 1962. Bản dịch: Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1964.
5. Mộng trong “Hồng lâu mộng” của
Tào Tuyết Cần và “Cửu vân mộng” của Kim Vạn Trọng – Vũ Thị Thanh Tâm.
6. Hồng Lâu Mộng – wikipedia
7.
Hồng lâu mộng –
Tiểu thuyết ái tình hay nhất mọi thời đại – Đỗ Ngọc Thạch
8. Số phận người phụ nữ trong Hồng
Lâu Mộng – Đặng Ngọc Ngận