I/
DẪN NHẬP
Phạm
Quỳnh đã từng nói đại ý rằng : một nước không thể không có quốc túy, Truyện Kiều
là quốc túy của ta; một nước không thể không có quốc hoa, Truyện Kiều là quốc
hoa của ta; một nước không thể không có quốc hồn, Truyện Kiều là quốc hồn của
ta. Rõ ràng, không phải ngẫu nhiên mà Phạm Quỳnh đưa ra lời nhận xét như vậy,
quả thực, Truyện Kiều đã trở thành linh hồn của cả dân tộc, mang trong nó tất cả
những gì tinh túy nhất. Thật vậy, đọc Truyện Kiều, ta dường như thấy được “máu
chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy”, khi Nguyễn Du đã hòa lòng
mình vào từng câu, từng chữ trong thiên Đoạn
Trường Tân Thanh. Hàng trăm năm qua, Truyện
Kiều đã sống chan hòa trong đời sống dân tộc. Không riêng gì văn học Việt
Nam, trên văn đàn thế giới cũng thật hiếm những tác phẩm chinh phục được đông đảo
trái tim của bạn đọc như Truyện Kiều.
Dẫu biết cốt truyện của Truyện Kiều
được mượn từ tác phẩm Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm Tài Nhân, nhưng cũng cần phải hiểu rằng Nguyễn Du đã thổi hồn dân
tộc vào tác phẩm của mình, tạo cho nó một hình ảnh mới, một giọng điệu mới, và
một sức sống mãnh liệt chưa từng thấy. Chúng ta hãy cùng so sánh Truyện Kiều và
Kim Vân Kiều truyện để thấy rõ được sự tiếp thu và sáng tạo, cũng như những thành
công mà Nguyễn Du đã đạt được.
II/
GIỚI THIỆU CHUNG
1.
Nguyễn Du và Truyện Kiều
a.Nguyễn
Du
Cuộc
đời
Nguyễn
Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu (1765), niên hiệu Cảnh
Hưng triều vua Lê Hiển Tông. Nơi sinh là phường Bích Câu, thành Thăng Long (Hà
Nội). Cha là Nguyễn Nghiễm, mẹ là Trần Thị Tần.
Ông là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt
Nam, được người Việt kính trọng gọi là "Đại thi hào dân tộc". Năm 1965, Nguyễn Du được Hội đồng hòa bình thế giới công nhận là danh nhân văn hóa thế giới và ra quyết định kỷ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm
năm sinh của ông.
Sự nghiệp
Tác phẩm bằng chữ Hán
Những tác phẩm bằng chữ Hán của
Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm 1959 mới được ba nhà nho là: Bùi
Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu
tập: Thơ chữ Hán Nguyễn Du (NXB Văn hóa, 1959) chỉ gồm có 102
bài. Đến năm 1965 NXB Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập
mới do Lê
Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài
như sau:
·
Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu
trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
·
Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi
làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
·
Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc)
gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.
Tác phẩm bằng chữ Nôm
Những tác phẩm bằng chữ Nôm của
Nguyễn Du gồm có:
·
Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột-Tên phổ biến
là Truyện
Kiều), được viết bằng chữ
Nôm, gồm 3254 câu thơ theo thể lục
bát. Nội dung của truyện dựa theo tác
phẩm Kim
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung
Quốc. Nội dung chính của truyện xoay
quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý
Kiều, nhân vật chính trong truyện, một
cô gái có tài sắc. Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học (bộ mới) ghi:
"Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung
Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói
ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng
Bình (1804-1809). Thuyết sau được
nhiều người chấp nhận hơn".
·
Văn chiêu
hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), hiện chưa rõ
thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của
ông Trần Thanh Mại trên
“Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn
tế này sau một mùa dịch khủng
khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở
khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh
hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho
rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều,
khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm được làm theo
thể song thất lục bát,
gồm 184 câu thơ chữ
Nôm.
·
Thác lời
trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục
bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái
phường vải.
·
Văn tế
sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn
tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình
với hai cô gái phường vải khác.
b.Truyện Kiều
Truyện Kiều -
tên gốc là Đoạn trường tân thanh,
là truyện thơ chữ Nôm theo thể
lục bát của Nguyễn
Du, gồm 3254 câu lục bát, dựa theo tiểu thuyết Kim
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc).
Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-1820). Lại có thuyết nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng
thời gian làm Cai bạ ở Quảng
Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn. Ngay sau khi ra
đời, Truyện Kiều được nhiều nơi khắc
in và lưu hành rộng rãi. Hai bản in xưa nhất hiện còn là bản của Liễu Văn Đường
(1871) và bản của Duy Minh Thị (1872), đều ở thời vua Tự
Đức.
Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau
khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều-nhân vật chính trong truyện, một cô gái “sắc
nước hương trời” và có tài “ cầm ký thi họa” nhưng cuộc đời lại gặp lắm truân
chuyên.
Về nội dung, Truyện Kiều
có hai giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Tác phẩm đã phản
ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống
trị và số phận những con ngừơi bị áp bức đau khổ, đặc biệt là số phận bi kịch của
người phụ nữ.
Về nghệ thuật, Truyện
Kiều đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, nổi bật là ngôn ngữ
và thể loại. Đến Truyện Kiều , ngôn
ngữ tiếng Việt đã đạt đến đỉnh cao của ngôn
ngữ nghệ thuật ở cả ba phương diện biểu đạt, biểu cảm và thẩm mĩ; kết hợp hài
hòa giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học, đồng thời nghệ thuật tự sự và
miêu tả trong tác phẩm cũng rất đa dạng.
Ngày nay, Truyện Kiều
vẫn đang được các nhà xuất bản in với số lượng lớn, được dịch ra rất nhiều thứ
tiếng. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đánh giá rất cao Truyện Kiều.Và có thể nói rằng kiệt tác Truyện Kiều có sức chinh phục
khá lớn đối với nhiều thế hệ độc giả cả trong và ngoài nước.
2.
Thanh Tâm tài Nhân và Kim Vân Kiều truyện
a.Thanh
Tâm Tài Nhân
Thanh Tâm Tài Nhân tên thật là Từ Văn Trường, tức Từ
Vị, ông còn có một số bút danh khác là Thiện Tri, Thanh đằng, Điền Thủy Nguyệt;
là một nhà văn Trung Quốc đời nhà Thanh( khoảng thế kỷ XVII). Ông học giỏi,
hiểu biết rộng nhưng lận đận chốn quan trường, bèn làm mặc khách của Hồ Tôn Hiến.
Sinh thời đã có lần Thanh Tâm Tài Nhân thảo tờ biểu "Dâng hươu trắng"
cho vua nên trở thành nổi tiếng.
Ngoài Kim Vân Kiều, ông còn viết bộ kịch Tứ
thanh viên gồm bốn vở.
b.Kim
Vân Kiều truyện
Kim
Vân Kiều truyện là một trong vô vàn tiểu thuyết tài tử
giai nhân cuối Minh đầu Thanh. Kim Vân Kiều
truyện là một bộ tiểu thuyết chương hồicó lối kết cấu truyền thống theo kiểu
văn xuôi cổ điển Trung Quốc kể lại cuộc đời của
một cô gái đời Minh nổi danh về tài sắc mà chẳng may bị lưu lạc khổ sở: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.
Sách gồm 20 hồi, trước mỗi hồi đều có phần giới thệu, tóm lược nội dung, lời
bình phẩm. Kết cấu của tác phẩm được miêu tả theo tuyến tính thời gian, trình tự
diễn biến của sự kiện và quá trình hoạt động của nhân vật chính. Chủ đề của Kim Vân Kiều truyện là tình và khổ.
3.
Mối quan hệ giữa Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện
Như chúng ta đã
biết Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nói cho đúng hơn thì Truyện Kiều có nguồn gốc từ Kim Vân Kiều truyện đời Thanh. Thế nhưng
hai tác phẩm này lại có hai số phận hoàn toàn khác nhau. Nếu như Truyện Kiều của Nguyễn Du được nhiều người
ưa chuộng và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau (khoảng 30 bản dịch ra 20 tiếng nước ngoài. Ngoài ra đã có
những công trình nghiên cứu so sánh Truyện
Kiều với một số tác phẩm của một số nền văn học dân tộc khác như
văn học Nga, văn học Đức, văn học Hàn Quốc, ...). Thì Kim Vân Kiều truyện lại phải chịu một số
phận bất hạnh. Cuốn sách của Thanh Tâm Tài Nhân bị vùi lấp hàng mấy thế kỉ
trong văn học sử Trung Quốc. Nó thất truyền và gần như không tồn tại trong lịch
sử văn học Trung Quốc.
Điều gì đã làm ra sự
khác biệt, khoảng cách về giá trị rất lớn giữa hai tác phẩm ấy?
Chúng ta thấy rất rõ
hai tác phẩm này có cùng một cốt truyện, cùng một hệ thống nhân vật và cả kết cấu
tự sự. Thế nhưng Nguyễn Du đã đem tài năng của mình vào để thay đổi số phận của
tác phẩm. Ông biến nó thành viên ngọc sáng của phương Đông, trải qua bao thế kỉ
vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn học. Những cái mới trong Truyện Kiều mà Thanh Tâm Tài Nhân đã
không làm được trong Kim Vân Kiều truyện
của mình có phải là nguyên nhân chính của sự khác biệt?! Một bên là văn xuôi tự
sự một bên là truyện thơ – thể loại khác nhau thì thông điệp nghệ thuật làm sao
có thể giống nhau? Rõ ràng truyện thơ có nhiều ưu thế hơn hẳn trong việc thể hiện
cảm xúc, đồng thời nó cũng dễ chạm vào trái tim bạn đọc hơn là ngôn ngữ của một
cuốn tiểu thuyết. Không chỉ thế Nguyễn
Du đã đem thiên nhiên vào trong tác phẩm của mình – một thiên nhiên thực nhưng
cũng có khi là thiên nhiên của cảm xúc,
tâm tưởng. Trong khi đó Kim Vân Kiều truyện hoàn toàn vắng bóng thiên nhiên.
Nguyễn Du xây dựng lại các tình tiết cũng như hình tượng nhân vật của nguyên
tác cho phù hợp với suy nghĩ, cảm nhận của mình. Đó là cái riêng và cũng là cái
sáng tạo làm nên sự khác biệt cơ bản giữa hai tác phẩm.
Công lao của Thanh Tâm Tài Nhân không nhỏ. Không có Thanh
Tâm Tài Nhân thì ắt hẳn không thể có Truyện
Kiều của Nguyễn Du. Nhưng cũng lại phải nói cho công bằng, chính nhờ Truyện Kiều của Nguyễn Du ngày một nổi
tiếng, vượt ra khỏi biên giới nước mình, mới là một động cơ để những học giả
như ông Đồng Văn Thành cố gắng làm cho Kim
Vân Kiều truyện được độc giả trong và ngoài Trung Hoa quan tâm tới lại.
III/NỘI DUNG CHÍNH
1.
Bảng thống kê so sánh Đoạn Trường Tân
Thanh với Kim Vân Kiều truyện
Như mọi người đều biết,
Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du
được sáng tác theo Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm Tài Nhân. Vậy phần nào là phần sáng tạo của Nguyễn Du, phần nào là
theo ý của Thanh Tâm Tài Nhân? Điều đó cho đến nay vẫn chưa giải quyết một cách
cụ thể và triệt để. Sự không hoàn toàn nhất trí trong việc đánh giá Nguyễn Du
do đấy mà có.
Công việc đó cần phải dựa
trên sự so sánh đối chiếu hai tác phẩm để rút ra những số liệu cụ thể mới định
giá được. Chỉ có làm như thế, chúng ta mới có thể tránh được những nhận định
phiến diện, chủ quan.
Và đây là kết quả cụ thể:
ĐT
TT
|
Theo ý KVKT
|
Số
câu do Nguyễn Du sáng tạo
|
Bố cục
|
Tư tưởng
|
||||||||
Tả cảnh
|
Tả người
|
Nhớ người yêu
|
Nhớ cha mẹ
|
Băn khoăn
|
Tâm lý yêu đương
|
Cộng
|
Bỏ ý
|
Chuyển ý
|
Có ý nghĩa tôn giáo
|
Có tính chất tiến bộ
|
||
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11
|
12
|
13
|
3254 câu
|
1313
|
357
|
171
|
38
|
23
|
124
|
196
|
1941
|
2/3 KVKT
|
15
|
20
|
4
|
Các thành phần khác:
1022 câu
Trong khi đối chiếu,
tính được: Về phía Kim Vân Kiều Truyện
sẽ bao gồm cả bài tựa của Thiên Hoa tăng chủ nhân, lời bình đại ý đầu mỗi hồi,
nội dung của 20 hồi cùng với tất cả các bài thơ xướng họa ở mỗi hồi. Kim Vân Kiều Truyện, căn cứ vào quyển Kim Vân Kiều, Thanh Tâm Tài Nhân biên thứ,
Lý Trí Trung hiệu điểm, Xuân Phong Văn nghệ xuất bản xã là tài liệu mới ấn hành
trong những năm gần đây, phục vụ cho việc nghiên cứu Minh mạt Thanh sơ tiểu
thuyết.
Cột 1, ghi theo thứ tự
20 hồi của Kim Vân Kiều Truyện.
Cột 2, đối chiếu với số
câu được diễn ra ở Đoạn Trường Tân Thanh
theo từng hồi của Kim Vân Kiều Truyện.
Các cột 3, 4, 5, 6, 7,
8, 9 ghi theo số câu. Đơn vị là câu.
Truyện Kiều có những trang trữ tình ưu tú nhất trong văn học nước ta, là
tập thơ ái tình. Trong một xã hội phong kiến, khi quả tim của đôi lứa thanh
niên luôn bị đè nén trong lễ giáo, nỗi ẩn ức của con người đã tìm được trong tập
thơ Nguyễn Du đôi lời an ủi, một tia hy vọng cho luyến ái được tự do, được giải
phóng và một dịp để nhận thức bao nhiêu nét tế nhị của quả tim con người qua
các cuộc thử thách của tình yêu. Do đó độc giả biết ghét tất cả những trạng
thái luân lý không tự nhiên đã trói buộc con người một cách vô lý, làm cho cõi
lòng nghèo nàn. Truyện Kiều còn là tập thơ của thiên nhiên, dạy
cho con người biết yêu thiên nhiên trong màu sắc, thanh âm, ý vị của nó. Thiên
nhiên trong Truyện Kiều toàn diện:
Cảnh
thiên nhiên chân thật của đồng quê, cảnh chiều hôm, cảnh: “non xa trăng gần” khi Kiều ngồi nghe: "Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh
ghế ngồi", cảnh: "Ngọn triều non bạc trùng trùng"...Bao
nhiêu âm thanh, màu sắc, bao nhiêu cảm giác của ngũ quan, bao nhiêu ý nghĩa của
con người trước tạo vật...Nguyễn Du đã lựa chọn sắp xếp, có lúc vay mượn, nhưng
luôn luôn chế biến để họa những bức cảnh phù hợp với tâm trạng, ăn nhịp với bước
đường biến chuyển của cuộc đời. Cảnh vật thiên nhiên trong Truyện Kiều vừa là một quang cảnh “nhìn qua một tâm trạng” vừa là bức tranh trí họa cho đời sống
của con người. Nhà thi sĩ trữ tình thiên tài đó, trong khi tả cảnh vật thiên
nhiên với bao nhiêu màu sắc, hình thái, đã giúp cho người đọc một lối nhận thức
về vũ trụ, về ngoại giới. Đồng thời nhà thi sĩ đã làm cho nhãn giới và tâm giới
của độc giả thêm phong phú, thâm thúy. Cảm giác của độc giả dồi dào và sắc sảo
hẳn lên với những cảm giác phức tạp, nhiều vẻ, nhiều màu, thi sĩ đã lượm nhặt lại
và cung cấp một bó hoa đầy vật sắc. Tập thơ của Nguyễn Du quả đã mở rộng tầm
con mắt độc giả ngày trước và cả ngày nay, cho nó chú ý đến thị dã mới mẻ, muôn
màu của vật giới và tâm giới.
Một mặt nữa, cảnh vật thiên nhiên là cụ thể. Khi thi sĩ gây cho người mối cảm tình sâu sắc đối với cảnh vật, đồng thời cũng bồi dưỡng nỗi lòng yêu quê hương đất nước. Tình yêu quê hương làng mạc đó chính là một yếu tố để bồi dưỡng tinh thần yêu nước của con người. Quan niệm phê bình văn học nhân dân vẫn chú trọng đến tinh thần yêu nước của các nhà văn hiện đại, chính vì lẽ đó. Qua Truyện Kiều, có những bức họa, bức cảnh tuyệt diệu độc giả có thể đối chiếu với thực tế Việt Nam, làm cho con người tin chắc đó là hình thái, màu sắc của đất. Độc giả không lấy gì làm lạ khi những người bôn tẩu việc nước và gặp bước đường trắc trở vẫn mở một trang Truyện Kiều, tìm lấy một lời an ủi, một lý do cho sự hy sinh với lý tưởng của mình.
Một mặt nữa, cảnh vật thiên nhiên là cụ thể. Khi thi sĩ gây cho người mối cảm tình sâu sắc đối với cảnh vật, đồng thời cũng bồi dưỡng nỗi lòng yêu quê hương đất nước. Tình yêu quê hương làng mạc đó chính là một yếu tố để bồi dưỡng tinh thần yêu nước của con người. Quan niệm phê bình văn học nhân dân vẫn chú trọng đến tinh thần yêu nước của các nhà văn hiện đại, chính vì lẽ đó. Qua Truyện Kiều, có những bức họa, bức cảnh tuyệt diệu độc giả có thể đối chiếu với thực tế Việt Nam, làm cho con người tin chắc đó là hình thái, màu sắc của đất. Độc giả không lấy gì làm lạ khi những người bôn tẩu việc nước và gặp bước đường trắc trở vẫn mở một trang Truyện Kiều, tìm lấy một lời an ủi, một lý do cho sự hy sinh với lý tưởng của mình.
Cột 10, ghi tính theo số
trang của bản Kim Vân Kiều Truyện 214
trang. Số ý Nguyễn Du lược đi được tính theo dòng mà lấy tỉ lệ: Nguyễn Du lược
đi 142 trang tức là đúng 2/3 quyển Kim
Vân Kiều Truyện.
Cột 12, ghi tính theo từng
tư tưởng cụ thể, ví dụ: “Âu đành quá kiếp nhân duyên, nhân quả dở dang, hay Túc
nhân âu cũng có trời ở trong…”
Trong học thuyết Nho gia, Khổng Tử cho rằng mỗi cá nhân, sự
sống- cái chết, phú quý hay nghèo hèn đều do “Thiên mệnh” quy định. Mạnh Tử
nhấn mạnh thêm: không có việc gì xảy ra mà không có mệnh trời, mình nên tùy
thuận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy. Là một nhà Nho uyên bác Tứ thư, Ngũ
kinh, Nguyên Du đã thấm nhuần chân lí khái quát từ học thuyết của Nho gia. Ngay
khi mở đầu tác phẩm, tác giả đã đưa ra nhiều khái niệm của đạo Nho:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
Cảo thơm lần giở trước đèn
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh”
Có thể thấy qua đoạn mở đầu, tác giả đã khái quát nên quy
luật về mối quan hệ giữa con người với thế lực siêu hình, đó là “mệnh trời”-
một trong những học thuyết cơ bản của Nho gia. Mối quan hệ này được nhắc lại ở
đoạn kết của tác phẩm. Theo ông, mệnh trời là một thế lực vạn năng:
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Và trời cũng hết sức công bằng:
Có đâu thiên vị người nào
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai
Như
vậy với hai đoạn thơ mở đầu và kết thúc tác phẩm, Nguyễn Du đã đi vào quỹ đạo
chính thống “văn dĩ tải đạo” để làm sáng tỏ học thuyết của tiên thánh, để
thuyết giải về Thần quyền. Trong trường hợp này, phụ nữ sẽ là đối tượng phú bẩm
cho vẻ đẹp “hồng nhan”, đồng thời lại bị tạo hóa “đánh ghen”đày đọa số
phận “trời xanh quen thói mà hồng đánh ghen”. Và qua những khái
niệm của Nho gia với những quan niệm triết lí đã đúc kết thành biểu thức,
với phong cách diễn đạt có màu sắc thành ngữ, tục ngữ thường gặp trong “Truyện
Kiều”, tác giả nêu lên cảm hứng có tính chất chính thống bắt nguồn từ quan niệm
sáng ác của Nho gia. Đó chính là quan niệm được nọ mất kia, hơn tài kém mệnh.
Cùng với việc mượn đề tài, cốt truyện như đã nói trên, Nguyễn Du một mặt thể
hiện khuynh hướng chính thống trong văn học trung đại.
Tồn tại song song với nhưng khái niệm và quan niệm về mệnh
trời, về những biến động vô lường của cuộc sống con người, về hình tượng nhan
sắc bị vùi dập bởi tạo hóa:
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền vỡi chữ tai một vần
Nguyễn
Du lại khẳng định:
Sinh rằng giải cấu là duyên
Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều
Ví dù giải kết đến điều
Thì đem vàng đá mà liều với thân.
Hay
như hai câu ở đoạn cuối:
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Hòa vào màu sắc của tư tưởng Phật giáo ở những câu thơ trên
là nét tư tưởng Nho giáo của Khổng Mạnh: con người bằng nỗ lực chủ quan có thể
vượt lên trên số phận.
Cột 13, ghi những tư tưởng
tiến bộ, ví dụ “Nhân định thắng thiên”, “Trong tay đã sẵn đồng tiền”, “Chẳng
qua đồng cốt quàng xiên”…
Thúy Kiều phải tiếp khách lầu xanh, có sự thay đổi về thân
phận nhưng không bao giờ thay đổi tâm hồn và tính cách. Chính và lẽ đó mà bút
lực của Nguyễn Du luôn dồi dào những lời ca ngợi. Mười lăm năm trải qua biết
bao nhiêu thân phận, trước mặt người yêu cũ, nàng vẫn có thể nói một cách tự
hào về mình:
Chữ trinh còn một chút này
Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan.
Đến đây lại có một quan niệm mới về chữ “trinh”. Theo quan
niệm Nho giáo, chữ “trinh” đáng giá ngàn vàng. Nhiều lúc quan niệm cua giai cấp
phong kiến và quan niệm xã hội ấy đã chặn đứng quyền sống và quyền làm lại cuộc
đời của những nạn nhân xã hội. Nhưng Nguyễn Du sớm có con đường cách tân với
quan niệm mới mẻ về chữ “trinh”. Nhà thơ đã để Kim Trọng nói với Thúy Kiều
trong màn đoàn viên:
Xưa nay trong đạo đàn bà
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường
Có khi biến có khi thường
Có quyền nào phải một đường chấp kinh
Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình áy vay?
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.
Vấn đề luyến ái? Kiều quả đã can đảm nghe lời gọi của trái
tim và bất chấp khuôn phép lễ giáo, tôn pháp của đạo Khổng. Nhưng tinh thần đấu
tranh của Kiều chưa phải ý thức tranh đấu của chủ nghĩa nữ quyền.
Vấn đề hôn nhân? Truyện Kiều có những đoạn hùng hồn khởi tố những người đàn bà lâm vào “cái kiếp lấy chồng chung”. Nhưng tố khổ chưa thể giải quyết vấn đề nữ quyền.
Vấn đề hạnh phúc? Cảnh đoàn viên của Kiều trong đoạn “Hậu Kim Trọng” chỉ là tia sáng dìu dịu, hắt hiu trước bàn thờ Phật, phải đâu là thức ăn của cõi người...Đối với vận mệnh có lúc Kiều phải nghiến răng nguyền rủa:
Chém cha cái kiếp má đào
Cởi ra rồi lại buộc vào như không?
Vấn đề hôn nhân? Truyện Kiều có những đoạn hùng hồn khởi tố những người đàn bà lâm vào “cái kiếp lấy chồng chung”. Nhưng tố khổ chưa thể giải quyết vấn đề nữ quyền.
Vấn đề hạnh phúc? Cảnh đoàn viên của Kiều trong đoạn “Hậu Kim Trọng” chỉ là tia sáng dìu dịu, hắt hiu trước bàn thờ Phật, phải đâu là thức ăn của cõi người...Đối với vận mệnh có lúc Kiều phải nghiến răng nguyền rủa:
Chém cha cái kiếp má đào
Cởi ra rồi lại buộc vào như không?
Các cột 11, 12, 13 cũng
chỉ ghi những điều do Nguyễn Du viết ra.
Những số liệu thống kê ở
bảng chí có thể đảm bảo khả năng gần đúng tối đa.
2.Những
sáng tạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
a.Thể
loại
Một bên là văn xuôi kể
chuyện theo lối cổ của Kim Vân Kiều truyện,
một bên là truyện thơ của Truyện Kiều. Hay
nói rõ hơn đó chính là sự khác biệt về loại hình ngôn ngữ, một bên là văn xuôi,
một bên là thơ. Nói đến văn xuôi kể chuyện theo lối cổ như Kim Vân Kiều truyện là nói đến cái ngữ
nghĩa thông báo đơn nhất mà ngôn từ chứa đựng, cụ thể ở đây là nội dung của câu
chuyện được kể lại. Còn nói đến thơ như Truyện
Kiều thì ngoài ngữ nghĩa ra từ ngôn bản, còn phải nói đến tiết tấu, vần và
nhịp điệu, nói đến khả năng ảnh hưởng của tất cả những thứ ấy. "Trong lúc
trữ tình, nhà thơ đã gửi gắm vào đó cả thể nghiệm cuộc đời của mình, nên những
đoạn đó chân thực tha thiết, làm cảm động lòng người".
Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân là tác phẩm tiểu thuyết chương hồi thuộc thể tài văn xuôi, kết
cấu theo thời gian, theo trình tự diễn biến của các sự kiện, theo quá trình
hành động của các nhân vật. Nó thiên về mô tả sự kiện, đi sâu miêu tả thực tại,
khắc họa chân dung nhân vật một cách cụ thể- điều mà đôi khi ta cảm thấy hơi
khó chịu.
Cũng
như các tiểu thuyết chương hồi khác, tác phẩm gần như không đề cập đến diễn biến
tâm lý nhân vật mà chỉ có các biến cố, hành động của nhân vật. Tác phẩm lại đặc
biệt coi trọng mâu thuẫn xung đột, tập trung mô tả nhiều chi tiết để tô đậm một
tính cách nào đấy của nhân vật. Diện mạo nhân vật gần như chỉ là những nét chấm
phá chứ không miêu tả cụ thể.Trong tác phẩm, tác giả cũng đã đưa vào những đoạn
thơ, bài phú miêu tả thiên nhiên, nhưng thiên nhiên ấy lại bị tách rời khỏi cốt
truyện và đôi khi lại không gắn bó gì với tâm trạng của nhân vật.
Trong
khi đó, Truyện Kiều lại là một cuốn
truyện thơ, một tác phẩm văn học vừa cổ điển vừa hiện đại, có sự hài hòa giữa
hình thức và nội dung. Các nhân vật trong tác phẩm, các vấn đề xã hội không đợi
tác giả tự thuật lại nhiều mà tự nó có thể tự hiện diện, tự bộc lộ một cách
tinh vi.
b.Nguyễn
Du đã lược bỏ hai phần ba cuốn truyện
Trong một bài biên khảo
đăng trong tuyển tập “Nguyễn Du, Tác Giả và Tác Phẩm” do Nhà Xuất bản Giáo Dục ấn
hành năm 1999 tại Việt Nam, các tác giả Nguyễn Thạch Giang, Triệu Ngọc Lan, và
Lô Úy Thu đã bỏ công tìm tòi những phần trong Kim Vân Kiều truyện đã bị cụ Nguyễn Du lược bỏ. Khi so
sánh Đoạn Trường Tân Thanh với Kim Vân Kiều Truyện do Xuân Phong Văn
Nghệ xuất bản, các tác giả này nhận thấy cụ Nguyễn Du đã loại bỏ 142 trang trên
tổng số 214 trang, tức khoảng 2/3 tác phẩm. Cụ chỉ giữ lại 72 trang và dùng các
chi tiết trong số trang này để viết thành 1313 câu thơ trong tổng số 3254 câu của
Đoạn Trường Tân Thanh.
Vậy những phần mà Nguyễn
Du lược bỏ đó là:
◊Tất cả những bài thơ
xướng họa, những bài ghi lời thề thốt:
Trong Kim Vân Kiều truyện
Chính điều này đã làm
cho chúng ta bớt khó chịu bởi cái lối sính thơ của nhân vật. Nguyễn Du đã khéo
léo dẫn dắt độc giả vào một lối đi khác Thanh Tâm Tài Nhân, đó chính là đi vào
đường tài và đường tình của các nhân vật, mà trung tâm là Thúy Kiều; làm cho độc
giả phải bất bình sâu sắc với những cái đã phũ phàng chà đạp lên cái “tài” và
cái “tình” của con người.
Chẳng hạn, ở đoạn ba chị em Thúy
Kiều đi hội đạp thanh, lúc đi ngang mộ Đạm Tiên, nếu Kiều trong Truyện Kiều chỉ:
Lầm rầm khấn vái nhỏ to
Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.
Thì Kiều trong Kim Vân Kiều truyện lại vừa khấn vái, vừa
lạy, lại vừa đề thơ:
Sắc
hương đâu đó tá?
Thăm viếng não lòng thay!
Chăn gấm, trăng soi lạnh,
Đài gương, bụi phủ nhòa.
Đất tuy vùi ngọc ấy,
Tuyết chưa lấp danh này.
Rượu nhiều như sông đó,
Nào ai tưới chôn đây?
Hay như sau khi gặp Kim
Trọng về, ở Kim Vân Kiều truyện, đang
đêm nhớ nhung, suy nghĩ miên man về Kim, Thúy Kiều lại làm thơ:
Trời quang mây lặng không vương bụi,
Khác gì bình ngọc chứa lòng băng.
Nếu bạn đa tình săn sóc hỏi,
Tấm thân đau đớn biết cho chăng?
Thì hành động này ta
không bắt gặp lại trong Truyện Kiều.
◊Những lời đối đáp rườm
rà, không giúp ích gì cho việc phát triển tính cách nhân vật.
Như trong hồi 1 và hồi
2, những lời đối thoại qua lại của ba chị em Thúy Kiều lúc thấy mộ Đạm Tiên và
khi gặp Kim Trọng đều được Nguyễn Du rút gọn hết. Cả ở những hồi sau cũng thế.
Cũng nhờ đó, bố cục của
cốt truyện trong Đoạn Trường Tân Thanh
rất chặt chẽ, phát triển rất tự nhiên và cân đối, không hề luộm thuộm, rườm
rà.Có thể thấy rằng Nguyễn Du chỉ giữ lại những chi tiết nào gọi là đặc trưng,
điển hình, ảnh hưởng hoặc làm rõ tâm lý, tính cách nhân vật.
◊Những gì gây hại đến
tính cách, nhân phẩm của các nhân vật như Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải; bao gồm
cả những lời lẽ dụ hàng của các thuyết khách của Hồ Tôn Hiến( quan đốc phủ phái
Hoa Nhân, trung quân họ La), lời Từ Hải đáp lại tên Lợi Sinh.
Cuộc xử oán dông dài và man rợ trong Kim Vân Kiều
Truyện được cụ Nguyễn Du tóm tắt qua 42 câu thơ. So sánh hai đoạn trích Kiều
báo oán trong Kim Vân Kiều Truyện và Đoạn Trường Tân Thanh, ta nhận thấy
những điểm nổi bật sau:
●Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Thúy Kiều tha tội
hoàn toàn cho Hoạn Thư. Trong Kim Vân
Kiều Truyện, Kiều tha tội chết nhưng ra lệnh đánh Hoạn Thư một cách dã man.
●Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Thúy Kiều không
sai quân sĩ bắt mẹ Hoạn Thư đem về trị tội như trong Kim Vân Kiều Truyện.
●Cụ Nguyễn Du chỉ tả cảnh xử tội Tú Bà, Mã Giám Sinh,
Sở Khanh, Bạc Hãnh, Bạc Bà, và Ưng, Khuyển một cách vắn tắt chứ không chi tiết
và tàn nhẫn như trong Kim Vân Kiều
Truyện. Qua ngòi bút của cụ Nguyễn Du, chúng ta cảm thấy đồng
tình với Kiều khi nàng tha bổng Hoạn Thư nên không phê phán nàng nặng nề khi
nàng trả thù những nhân vật khác. Trái lại, khi đọc Kim Vân Kiều Truyện, có lẽ người đọc phải chau mày và có ý niệm
chán ghét Kiều trước cách trừng trị dã man, tàn bạo, thiếu nhân tính nàng áp
dụng đối với kẻ thù.
Nàng
Kiều trong Truyện Kiều đối với Thúc
Sinh và Từ Hải vẫn nặng tình như đối với Kim Trọng, mà lẽ ra theo đúng nguyên
tác Kim Vân Kiều truyện “Thúy
Kiều chỉ thực sự yêu có một mình Kim Trọng, còn đối với Thúc Sinh và Từ Hải thì
chủ yếu chỉ cảm cái ơn họ chuộc mình ra khỏi lầu xanh.Nguyễn Du cũng không hề
buộc chặt nhân vật Thúy Kiều vào một thứ “phẩm tiết kiên trinh” như Thanh Tâm
Tài Nhân. Được Hoài Thanh coi là người “đi guốc trong ruột nhân vật”, Nguyễn Du
hiểu hơn ai hết mối tình với Kim Trọng dầu sao cũng chỉ là mối tình đầu của Kiều.
Với thời gian xa cách chừng ấy năm, lại trải biết bao nhiêu bầm dập, trong tâm
lý Kiều ví thử vẫn cứ còn giữ guyên vẹn tình cảm với Kim Trọng như thuở nào để
suốt ngày mình dằn vặt mình thì thật ít ai hiểu nổi. Nguyễn Du đúng là một ngòi
bút hiện thực tâm lý, khi ông cho nàng Kiều nhớ đến Kim Trọng như nhớ đến một kỷ
niệm cũ, không còn thắm nữa nhưng vẫn chưa phai: “Xót thay chút nghĩa cũ càng/Dầu
lìa ngó ỷ còn vương tấc lòng".Nguyễn Du cũng không thể buộc Thúy Kiều
hờ hững với Thúc Sinh vì trong hoàn cảnh đang sống dưới địa ngục trần gian của
nhà mụ Tú Bà, Thúc Sinh không chỉ là người phò nguy cứu nạn, mà còn là con người
hết sức đa tình, đã hiến dâng cho nàng cả tâm hồn và của cải, cả tình yêu “đá
vàng” lẫn tình yêu xác thịt: “Miệt mài trong cuộc truy hoan/Càng quen thuộc nết
càng dan díu tình”. Kiều giờ đây không còn ở cái tuổi cài trâm e lệ như thuở mới
yêu Kim Trọng. Nàng đã thất thân với Mã Giám Sinh rồi với Sở Khanh, lại đã lăn
lóc chốn lầu xanh, mùi đời đã trải. Bắt nàng cứ thờ ơ lạnh nhạt trước một mối
tình chứa chan hạnh phúc như của chàng Thúc e chỉ là giả dối nếu không là
ngốc nghếch về tâm lý. Thế nhưng mối tình của Thúy Kiều đối với Thúc sinh, cũng
như sau này đối với Từ Hải, vẫn khác mối tình đầu giữa nàng với Kim Trọng. Một
bên e ấp, trong sáng, thuần túy tình yêu, một bên dạn dĩ, tỉnh táo, vừa là ơn
nghĩa, vừa biết tính toán thiệt hơn, nên tuy có nhớ nhung: “Cầm tay dài ngắn thở
than/Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời’ vẫn đinh ninh những chuyện rất thực
tế: “Đôi ta chút nghĩa đèo bòng". Cũng vậy, với Từ Hải, người đã cứu mình
khỏi chốn bùn nhơ lần thứ hai, lại giúp mình đền ơn trả oán phân minh, cho mình
được sống những ngày hả hê nhất, mà nói Kiều lấy Từ không phải vì tình thì dễ
chỉ có Thanh Tâm Tài Nhân mới nghĩ ra được. Kiều của Nguyễn Du phát triển theo
xu thế tâm lý cuộc đời thực đã không thể làm như vậy. Nàng yêu Từ Hải với tấm
lòng của người tri kỉ: “Khen cho con mắt tinh đời/Anh hùng đoản giữa trần ai mới
già”, cũng là với cái nghĩa của người chịu ơn sâu nặng: “Thưa rằng lượng cả bao
dung/Tấn Dương được thấy mây rồng có phen”. Vì thế nàng vẫn dành cho từ Hải một
góc trong trái tim thương nhớ sau khi đã hồi tưởng hết cha mẹ, các em, đến người
tình cũ:”Cánh hồng bay bổng tuyệt vời/ Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”.
Không thể nói với những mối tình gắn bó sau này, Kiều đã tự đánh mất mình.
Chính Kim Trọng là người hiểu rất rõ tâm hồn của nàng trước sau vẫn toàn vẹn:
“Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường”.
Điều này cho ta thấy sự
khác biệt rõ ràng giữa tư tưởng của Nguyễn Du với tư tưởng của Thanh Tâm Tài
Nhân. Từ đó mà chủ đề của hai tác phẩm ngỡ là giống nhau nhưng thật ra lại khác
nhau hoàn toàn.
Nếu Thanh Tâm Tài Nhân
viết Kim Vân Kiều truyện chỉ vì cảm
thông với thân phận chìm nổi bấp bênh, trăm đau ngàn khổ của nhân vật chính
Thúy kiều- một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại bị bao “nỗi khổ nhục
phũ phàng hắt hủi” và cốt chỉ để chứng minh “ Tạo hóa ghét sự hoàn toàn, hơn điều
nọ tất phải kém điều kia, sinh được một phần hồng nhan thì phải chịu mười phần
đày đọa, có được một chút tài tình lại phải gánh thêm mười phần nghiệp chướng”.
Thì ở Đoạn Trường Tân Thanh , Nguyễn Du dường
như sâu sắc hơn nhiều. Ông đau cho cái kiếp số bèo bọt của nhân vật hay cũng
chính là đau cho cái cuộc đời thực của ông?! Sóng gió cuộc đời xô cuốn phũ
phàng lên cả thân người của thi sĩ tài hoa ấy. Chính vì thế “Đau đớn thay phận
đàn bà. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Câu thơ nghe như xé lòng người đọc
tan tác, ta nghe đâu đó cả tiếng cười gằn mỉa mai của tác giả!
Rõ ràng, cái cảm của
Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là cái cảm của người ngoài, làm sao đau, sao xót bằng
cái cảm của Nguyễn Du- người trong cuộc! Hỏi làm sao khi Nguyễn Du đã xây dựng
một Thúy Kiều hoàn hảo đến như thế? Kiều của Nguyễn Du không bao giờ làm ta khó
chịu như Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân.
Một điều khác biệt nữa
là, nếu Thanh Tâm Tài Nhân khẳng định về chuyện “Tạo hóa ghét sự hoàn toàn” thì
Nguyễn Du ở một mức độ nào đấy còn hơi
băn khoăn, ông đặt câu hỏi cho vấn đề này, liệu rằng có phải:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Và:
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh
ghen.
◊Một số nhân vật như Vệ
Hoa Dương,Bộ Tân- kiểu thầy trọ của tên thầy kiện ở nông thôn, quân sư cho Thúc
Sinh đối phó với Tú Bà, các thuộc tướng của Từ Hải( Lôi Phong, Sử Chiêu)… cũng
các hành động và nhân vật của họ.
Cũng như trên, cuốn
truyện nhờ thế mà chặt chẽ, nhẹ nhàng, không rườm rà bởi những chi tiết lôi
thôi làm rối trí người đọc hoặc đôi khi nhiều quá làm người đọc không thể nào
nhớ hết những nhân vật không tạo ra một dấu ấn riêng nào.
Đặc biệt nữa, ở Truyện Kiều của Nguyễn Du nếu để ý thì
ta thấy rằng hầu như từ hồi này qua hồi khác nhà thơ đều dùng những câu thơ để
chuyển ý làm cho văn bản hết sức chặt chẽ, người đọc dễ theo dõi và sắp xếp được
môi trường cho các nhân vật xuất hiện hành động.
c.1941 câu
còn lại do chính công lao sáng tạo của Nguyễn Du viết ra
Khi viết Đoạn
Trường Tân Thanh, ngoài việc lược bỏ những đoạn hoặc rườm rà hoặc không cần
thiết trong Kim Vân Kiều truyện, cụ
Nguyễn Du đã chứng tỏ biệt tài trong việc sử dụng ngôn ngữ qua những đoạn
tả cảnh, tả tình, tả tình trong cảnh, tả cảnh trong tình; cũng như đã thành
công trong việc miêu tả nhân vật và tô đậm cá tính nhân vật với chỉ vài câu
thơ. Thêm nữa, cụ cũng đã trang bị cho các nhân vật một đời sống nội tâm phong
phú với những suy tư, những khao khát, những rung động phù hợp với con người
của họ theo từng hoàn cảnh của câu chuyện. Đây là những điều Thanh Tâm Tài Nhân
đã thiếu xót khi sáng tác Kim Vân Kiều
Truyện.
Chính tài nghệ của cụ Nguyễn Du đã cắt nghĩa được
tại sao hai tác phẩm kể cùng một câu chuyện lại có hai số phận khác nhau. Một
bên nhanh chóng chìm vào quên lãng ngay chính trên quê hương của nhân vật trong
truyện, một đằng vừa xuất hiện đã được quần chúng mở rộng vòng tay đón
nhận và trở thành tác phẩm bất hủ của dân tộc và cả thế giới.
Từ sự thực đó nói lên một cách rõ ràng: Truyện Kiều
không phải là một tác phẩm dịch. Dịch và viết bao giờ cũng là hai chuyện khác
nhau. Điều đó có lý do của nó. Bởi vì ngôn ngữ chỉ là công cụ của nhà văn, nhà
thơ dùng để diễn đạt một nội dung nào đấy qua một số hình tượng nào đấy trong
một tác phẩm văn học. Cái vĩ đại, cái chủ yếu của một tác phẩm văn học chính là
nội dung cùng với cả hệ thống hình tượng của nó được diễn tả, được xây dựng nên
bằng một ngôn ngữ tương ứng. Không có cái nội dung được diễn tả qua hệ thống
hình tượng ấy thì ngôn ngữ - hay nói một cách nôm na, thì văn có bóng bẩy đến
đâu cũng không sao gọi là hay được.
d.Nguyễn Du
đã rất tài tình khi sử dụng tất cả những gì gần gũi nhất để xây dựng nên những
hình tượng nghệ thuật đẹp đẽ.
Nguyễn Du đã dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và sáng tạo ra một thi
phẩm lớn với một nội dung, một hệ thống hình tượng riêng của mình. Nguyễn Du đã
có biệt tài trong việc sử dụng ngôn ngữ kể chuyện của tác giả. Nhờ sử dụng
phương tiện này mà chúng ta thấy được thái độ của Nguyễn Du đối với nhân vật.
Thiên nhiên, cuộc sống nội tâm của con người (nhớ
người yêu, nhớ cha mẹ, băn khoăn về cuộc đời, rạo rực yêu đương và cả đến những
tâm lý ghen tuông)… Tất cả những cái đó được diễn tả bằng một ngôn ngữ thơ ca
điêu luyện hầu như thâu góp bằng hết mọi tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc.
Thiên
nhiên trong Kim Vân Kiều truyện như đã
trình bày ở trên hầu như vắng vẻ, chỉ thỉnh thoảng ta mới bắt gặp, song những lần
thỉnh thoảng đó lại thấy không ăn nhập gì mấy với tâm trạng, tính cách của nhân
vật. Mọi cảnh vật đều hiện lên rất mờ nhạt, lại mang phần rời rạc, loáng thoáng
qua một số bài thơ của Kiều hay qua lời kể sơ lược của Thanh Tâm Tài Nhân. Còn
trong Truyện Kiều, thiên nhiên đi về
khắp lượt. Thiên nhiên được Nguyễn Du miêu tả gắn liền với tâm trạng, số phận
nhân vật. Qua thiên nhiên, người đọc có thể lờ mờ nhận ra được những suy nghĩ,
lo lắng, hay tâm sự của nhân vật trữ tình. Chẳng hạn, cũng là mùa thu, nhưng mỗi
lần xuất hiện, ngòi bút của Nguyễn Du lại mang cho nó mỗi sắc áo khác nhau:
●Long
lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
●Người
lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
●Giậu thu vừa nảy chồi sương,
Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi.
●Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời.
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
●Giậu thu vừa nảy chồi sương,
Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi.
●Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời.
Đối với các hiện tượng miêu tả, thấy được cuộc sống
nội tâm của nhân vật. Ở Kim Vân Kiều Truyện, ngôn ngữ kể chuyện của tác giả không
được sử dụng chặt chẽ và vừa phải, cho nên cuộc sống nội tâm của nhân vật cũng
nghèo nàn vì không có một cuộc sống thực, một cuộc sống nghệ thuật…
Đọc
Kim Vân Kiều truyện, có thể dễ dàng
nhận thấy thế mạnh của Thanh Tâm Tài Nhân trong việc tạo dựng cốt truyện hấp
dẫn với hệ thống chi tiết phong phú, có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn.
Có lẽ đây cũng là lí do khiến Nguyễn Du mượn tác phẩm này làm cái bình để rót
vào đó những suy ngẫm, trăn trở, khát khao, ước vọng... của riêng mình.
Khi thực hiện mục đích đó, Nguyễn Du
đã tìm đến một thế mạnh khác – sức mạnh của ngôn ngữ thơ, sự giàu có của tiếng
mẹ đẻ. Ông lược bỏ cái thô nhám của ngôn ngữ văn xuôi, dùng khả năng biểu đạt,
tính biểu cảm cao độ của từ ngữ thay cho nhiều chi tiết. Chẳng hạn, Thuý Kiều
của Thanh Tâm Tài Nhân lúc bắt đầu trao duyên đã vừa khóc vừa nói (có Thuý Vân
trước mặt): “Chàng Kim! Chàng Kim! Trước đây thiếp cố giữ vẹn tấm thân, không
chiều ý chàng là sợ trong đêm hợp cẩn, không lấy gì làm tin. Nếu sớm biết có
biến ngày nay như thế này thì lúc ấy còn giữ làm chi”.
Thật
khó hình dung một thiếu nữ được nuôi dạy trong nền nếp nho gia lại dễ dàng nói
thẳng một vấn đề như thế trước mặt người khác, dù đó là em ruột. Mặt khác, có
thật hợp lí không khi để cho những suy nghĩ ấy xuất hiện ngay khi Kiều chưa bán
mình xong, chưa phải gánh chịu cái cảnh “Một cơn mưa gió nặng nề/ Thương gì đến
ngọc, tiếc gì đến hương”?
Nguyễn
Du đã đưa câu nói kia khỏi cảnh trao duyên và chuyển thành ý nghĩ của Thuý Kiều
trong tâm trạng nhục nhã, ê chề, phẫn uất sau khi thất thân với Mã Giám Sinh và
diễn đạt bằng những từ ngữ hàm súc, tế nhị: “Biết thân đến bước lạc loài/ Nhị
đào thà bẻ cho người tình chung”...
Kim Vân Kiều
Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân còn có
tên là Song Kỳ Mộng, khi mới ra đời nó đã bị quên đi, ít ai nhắc đến. Còn Đoạn
Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, gần hai trăm năm nay chiếm một vị trí rực rỡ
trong lịch sử văn học Việt Nam. Điều đó thì đã rõ.
Tại sao Kim Vân
Kiều Truyện và Đoạn Trường Tân Thanh
có hai số phận khác nhau ấy? Điều đó không thể chỉ giải thích vì ngôn ngữ, vì
văn chương họ Nguyễn hay hơn văn chương Thanh Tâm Tài Nhân; hay vì Đoạn Trường Tân Thanh là một bài thơ
dài, còn Kim Vân Kiều Truyện là cuốn
truyện văn xuôi. Nó chỉ có thể giải thích được bắng cái nội dung với những hình
tượng được xây dựng của tác phẩm, hay nói một cách khác, nó chỉ có thể giải
thích được bằng sự sáng tạo của Nguyễn Du trên cơ sở nhào nặn lại cốt truyện
của Thanh Tâm Tài Nhân mà xây dựng những bức tranh sống của xã hội có một nội
dung phong phú, sâu sắc.
3. Ý nghĩa sự
sáng tạo của Nguyễn Du
Tuy được nhen
nhóm từ Kim Vân Kiều của Thanh Tâm
tài nhân, nhưng Truyện Kiều của Nguyễn
Du đã tách khỏi nguyên tác ban đầu mà lựa chọn cho mình một con đường đi riêng.
Nguyễn Du chỉ dựa vào cái sườn của cốt truyện văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân mà
sang tạo ra hẳn một thi phẩm của riêng mình.Cần phải nói rõ ràng rằng, trong
lao động nghệ thuật thì sự sáng tạo của người nghệ sĩ là điều quan trọng hơn cả,
không chỉ sáng tạo ở số liệu mà cái quan trọng hơn là cách nhào nặn dữ liệu để
tạo nên những hình tượng nghệ thuật, những nhân vật điển hình có cá tính và có ý
nghĩa khái quát.
Hay như nh à
phê bình v ăn học Hoài Thanh đã đánh giá trong quyển Phê bình và tiểu luận (tập 1)
rằng : “Nguyễn Du đã biến một quyển truyện tuy cũng có giá trị nhưng chưa phải
là ưu tú thành một tác phẩm vô song trong văn học Việt Nam và có thể so sánh với
vô luận tác phẩm ưu tú nào trong văn học thế giới.”
IV.KẾT LUẬN
Trải
qua hàng trăm năm, với biết bao thăng trầm của cuộc sống, Truyện Kiều vẫn nóng bỏng hơi thở của nó, vẫn trường tồn sức sống
trong lòng mọi thế hệ độc giả. Đóng góp của Thanh Tâm Tài Nhân là không nhỏ,
nhưng chúng ta cũng không thể không thừa nhận rằng chính Nguyễn Du mới là người
mang đến thành công rực rỡ cho Truyện Kiều,
nâng Truyện Kiều lên trở thành tiếng
nói của dân tộc. “Truyện Kiều còn, tiếng
ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn,…” (Phạm Quỳnh). Và trong những đợt sóng mạnh
mẽ của cuộc đời, ta vẫn nghe văng vẳng những câu thơ bộc trào niềm tự hào của đất
nước:
“Hỡi
sông Hồng tiếng nói bốn nghìn năm
Tổ
Quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
Chưa
đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất
Khi
Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn
Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn…”
Đất nước ta bay lên
cùng với những vần thơ Truyện Kiều.
Xin
được mượn lời nhà nghiên cứu Trần Đình Sử để tạm khép lại bài tiểu luận này:
“Tác động nhiều mặt của Truyện Kiều đối
với sáng tác đương thời và đời sau, đối với đời sống văn học, làm nảy sinh các
hình thức sáng tác phê bình giải trí tao nhã, cũng như tạo hình một đời sống lịch
sử của riêng nó suốt gần 200 năm và còn dài lâu nữa, đã chứng tỏ tầm vóc vĩ đại
của nó có thể sánh ngang với bất kỳ tác phẩm vĩ đại nào của nhân loại.”
۞HẾT۞