Monday, June 8, 2015

GIÁ TRỊ HIỆN THỰC” TRONG THƠ LÍ BẠCH - Nguồn : K37. SP Văn. ĐHSP.

Standard





Text Box: GIÁ TRỊ HIỆN THỰC TRONG THƠ LÝ BẠCH





MỤC LỤC



A.   KHÁI QUÁT CHUNG.

I.            BỐI CẢNH LỊCH SỬ.

Trung Quốc vào đời Đường là một quốc gia tiên tiến, văn minh trên thế giới đương thời. Khi lực lượng khởi nghĩa nông dân cuối nhà Tùy lật đổ sự thống trị của nhà Tùy, rồi Lý Uyên và con trai Lý Thế Dân dấy binh ở Thái Nguyên thừa cơ đánh chiếm Trường An, lập nên triều Lý – Đường. Họ đã tiếp thu bài học thống trị của những người đi trước, vì hủ bại và tàn bạo về chính trị mà dẫn đến diệt vong và hiểu được mối quan hệ giữa kẻ thống trị và nhân dân nên từ khi lập nước trở về sau, nhà Lý đã thi hành một số đường lối tương đối sáng suốt, giảm nhẹ gánh nặng cho nhân dân, hòa hoãn mâu thuẫn giai cấp, tiến hành cải cách trên mọi mặt kinh tế và xã hội… nên trong vòng một trăm năm, kể từ niên hiệu Trịnh Quán đời Đường Thái Tông trở đi là thời phồn vinh của kinh tế phong kiến. Kinh tế phồn vinh là cơ sở làm cho nhà Đường lớn mạnh, cũng là cơ sở làm cho văn hóa nghệ thuật phát triển.
Dưới ngọn cờ phong trào cổ văn, cuộc cách tân văn thể, phong trào do Hàn Dũ và Liễu Tông Nguyên tiến hành có ảnh hưởng sâu rộng, tích cực đối với sự phát triển của văn học nhà Đường và đời sau, đặc biệt là sự phát triển của tản văn. Đô thị phát triển, tiểu thuyết truyền kì cũng phát triển mở đường cho truyện ngắn về sau.
Năm 755, loạn An – Sử đã phá hủy nghiêm trọng cơ sở vật chất của xã hội trong khoảng hơn 60 năm. Thời kỳ này nhà Đường rối loạn và bắt đầu suy yếu. An Lộc Sơn là tiết độ sứ người Hồ, nổi lên định cướp nhà Đường. Đường Huyền Tông phải cùng Dương Quý Phi chạy vào đất Thục nhưng mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn giai cấp vẫn âm ỉ.
Từ năm 821 đến 907 mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc. Dấu hiệu nổi bật là cuộc khởi nghĩa của Hoàng Sào kéo dài gần 10 năm trời đã làm lung lay tận gốc cơ chế xã hội nhà Đường. Sau khi dẹp lọan quân khởi nghĩa, trong triều lại có sự xung đột giữa đại thần và hoạn quan. Cuối cùng chu Ôn đứng lên lật đổ chính quyền.
Trong 300 năm đời Đường, sự thịnh vượng hay sự suy sụp, đổ nát của triều đại, sự khốn khổ của người dân… đều để lại dấu ấn đậm nét trong thơ ca Đường.

II.            SƠ LƯỢC VỀ TÁC GIẢ LÍ BẠCH.

1.     Cuộc đời.

Lý Bạch (701 – 762) tự là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, là một nhà thơ lớn thời Thịnh Đường. Theo lời tự bạch của ông thì ông là hậu duệ của tướng quân Lý Quảng đời Hán và là cháu chín đời của họ Lương Vũ Chiêu vương. Khoảng năm 670, cuối Tùy, thân sinh ông vì một cớ nào đó không rõ phải trốn sang Tây Vực, sau lấy vợ là người bản xứ (gọi là Man bà) và sinh ra ông vào năm Võ Hậu cướp ngôi nhà Đường. Vì vậy Lý Bạch không những biết chữ Tây Vực mà ông còn kế thừa tính cách phóng khoáng tự nhiên của người Tây Vực. Đến khi Võ Hậu sụp đổ, gia đình ông rời Tây Vực về ngụ tại làng Thanh Liên, huyện Chương Minh thuộc huyện Miên Châu xứ Ba Thục (nay là huyện Miên Dương, tỉnh Tứ Xuyên) và ông coi đây là quê hương chính thức của mình.
 Năm 16 tuổi, ông cùng Đông Nham Tử đi ẩn tại phía nam núi Dân. Lúc 20 tuổi bắt đầu sống cuộc đời hiệp khách. Lý Bạch đi du lịch khắp nơi: Viếng Thành Đô, thăm núi Nga Mi, núi Thanh Thành, rong chơi hồ Động Đình… Năm 726, ông đến An Lục (nay thuộc Hồ Bắc), thăm đầm Vân Mộng. Tại đây ông cưới vợ là cháu gái quan tể tướng hồi hưu Hứa Ngữ Sư, rồi tạm dừng chân phiêu lãng và bắt đầu nổi tiếng văn chương giữa tuổi 30.
Sau đó, ở Tương Dương, ông làm quen với nhà thơ Mạnh Hạo Nhiên và trưởng sử Tiền Kinh Châu là Hàn Triều Tông. Từ thời kì này trở đi, ông thiết tha được hoạt động chính trị với lí tưởng “Làm rõ lời bàn của Quản Trọng, Án Anh, tính mưu thuật của đế vương, đem tài năng, trí tuệ nguyện giúp vua, làm cho thiên hạ yên ổn, bốn bể thanh bình”. Ông rất tự phụ về tài năng của mình, có thái độ “Không chịu khuất mình, không cầu cạnh ai”, “Giao thiệp ngang hàng với chư hầu”... Chính cái tác phong trong chốn quan trường đen tối của lịch sử này cho nên hoạt động chính trị của ông thời kì này chẳng có kết quả.
Năm đầu Thiên Bảo (742), Lý Bạch rời nhà xuống miền nam, đi chơi Cối Kê (Chiết Giang), ngụ tại Thiểm Trung với đạo sĩ Ngô Quân. Ngô Quân được vua triệu về kinh, đem Lý Bạch theo. Ông phấn khởi cho rằng có thể thực hiện được lý tưởng chính trị của mình, nên:

Ngửa mặt cả cười ra khỏi cửa
          Bọn mình đâu phải sống lều tranh.
 Nhưng Đường Huyền Tông lúc này không còn là một ông vua anh minh chú ý đến việc trị nước nữa, giao hết chính sự cho bọn gian thần Lý Lâm Phủ, còn mình chỉ truy hoan hưởng lạc. Lý Bạch chẳng qua cũng chỉ là một thứ “Văn nhân ngự dụng” mà thôi. Ông bất bình vì không ai hiểu chí mình, căm phẫn cho cảnh “Cát lẫn hòn ngọc sang, cỏ lấn chồi hoa thơm”, “Ngọc trắng nào có tội, ruồi xanh lại vu oan”. Với bản chất phóng túng, ghét cảnh mũ áo ràng buộc, không muốn “Uốn lưng cúi mày thờ phụng bọn quyền quý”, lại thêm nhận thức rõ ràng về sự hủ bại, thối nát qua mấy năm tiếp xúc, ông từ quan rời kinh đô và tiếp tục đời sống giang hồ lãng tử, để cho thơ tung cánh giữa đất nước bao la.
Khi loạn An - Sử bùng nổ, vì lòng yêu nước, vì ngây thơ, ông tham gia quân đội Lý Lân. Nhưng Lý Lân có ý đồ lật anh. Túc Tông diệt Lân. Lý Bạch bị bắt và bị đầy đi Dạ Lang (Quý Châu). Sau những lần thất bại đó Lý Bạch hiểu thêm đời sống xã hội, nhận thức sâu sắc hơn bản chất vua quan, tư tưởng phản kháng càng mạnh hơn, nhưng mặt khác những yếu tố tiêu cực trong tư tưởng chán đời, bất mãn cũng nảy sinh và phát triển. Mặc dù thế lòng yên nước ở ông vẫn còn, ở tuổi 60 ông vẫn hang hái tòng quân, nửa đường ốm phải về, một năm sau thì qua đời.
Thời đại Lý Bạch là thời đại thịnh vượng nhất của nhà Đường, nhưng ông cũng trải qua thời rối ren nhất của nhà Đường và chứng kiến sự suy vong của triều đại này. Hoàn cảnh xã hội như vậy đã làm cho tư tưởng ông trở nên phức tạp, phong cách thơ ông không thuần nhất.

2.     Sự nghiệp sáng tác.

a.     Quan niệm thơ ca.

   Quan niệm làm thơ của ông là theo phương châm “Kế thừa có phê phán, phục cổ để cách tân”. Ông nói: “Từ Trần, Lương trở lại nay, trở thành cực kỳ diêm dúa và nông cạn; Thẩm Hữu Văn (tức Thẩm Ước) lại tôn sung thanh luật, người phục hồi không phải là ta thì còn ai nữa ?” (Mạnh Khởi, Bản Sự Thi – Cao Dật Đệ Tam).
Tinh thần sáng tạo cách tân của ông còn thể hiện đột xuất trong bài Cổ Phong:
Học nhăn cô khỉ non,
Làm cả xóm hết hồn.
Thọ Lăng mất điệu cũ,
Mỉa chết khách Hàm Đan.
 Ông châm biếm những kẻ giáo điều, nô lệ cổ nhân trong văn học. Chính vì có tinh thần sáng tạo cách tân bồng bột như thế, Lý Bạch mới có cái khí vượt cổ nhân. “Làm phú hơn cả Tương Như, Cửu Kinh đánh đổ họ Khuất, vườn Lương đè hẳn họ Trâu, họ Mai”. Ông cũng như Đỗ Phủ, không bao giờ chịu quỳ gối trước cổ nhân, trái lại, muốn làm cho cổ nhân phải thua mình.

b.     Nhân tố tư tưởng.

   Thời trẻ, Lý Bạch đã “Thuộc làu thi thư, xem sách bách gia” cho nên ảnh hưởng người đời trước đối với ông rất rộng rãi. Tư tưởng Nho gia và Đạo gia đều tác động vào ông nhưng tư tưởng Đạo gia sâu sắc hơn nhiều. Ngay cả tư tưởng du hiệp cũng đóng góp phần hình thành phong cách đặc biệt của ông. Nhà thơ tự xưng là Nho sinh, nhưng nhiều khi xem thường, thậm chí châm biếm cuộc sống câu nệ, hủ lậu, gàn dở của nho sinh (Trào Lỗ Nho). Trái lại, ông hâm mộ cái hào phóng của các hiệp sĩ và tinh thần du hiệp mà họ theo đuổi. Tư tưởng ấy có một ý nghĩa tích cực và trong một chừng mực nào đó, đại biểu cho ý chí và lợi ích của giai cấp lớp giữa và lớp dưới chống lại giai cấp thống trị. Nhất là khi nó kết hợp với tinh thần “Công toại thân thoái” của Đạo gia, làm việc nghĩa không cần ân thưởng, báo đáp.

c.      Nội dung thơ ca.

 Do những nhân tố tư tưởng tích cực nói trên tác động đồng thời và từng lúc vào Lý Bạch nên sáng tác của ông là một kết hợp hài hòa giữa tính lãng mạn và tính hiện thực, trong đó tính lãng mạn chiếm phần lớn.
 Thơ ông chan chứa tình yêu quê hương, yêu đất nước, đau xót trước cảnh xương rơi máu chảy (Tái Hạ Khúc, Phù Phong Hào Sĩ Ca, Mãnh Hổ Hành…), những muốn đem trí tuệ, tài năng ra thi thố để “Cần vương trạch dân”. Tuy nhiên, thực tế phũ phàng khiến ông nhận ra mình chỉ là một thứ đồ trang sức cho cuộc sống xa hoa của giai cấp cung đình. Ông lại chống gậy lên đường, vĩnh biệt những bài thơ mua vui cho bọn quyền quý như Thanh bình điệu...
Yêu nước gắn liền với thương dân, ông đau xót cho số phận nhân dân trong vòng chiến loạn, những con người vất vả khốn khó, làm việc như trâu như ngựa (Đinh Đô Hộ Ca). Lý Bạch đặc biệt chú ý đến người phụ nữ với một tấm lòng nhân đạo đáng quý. Mến phục các nhân vật trọng nghĩa kinh tài, các trang du hiệp “Đến chết xương vẫn còn thơm, không thẹn là khách anh hùng trên đời” (Hiệp Khách Hành) vì họ đã dám chống bạo quyền, bênh vực người cô thế.
Tuy nhiên thơ ca phản ánh hiện thực, tố cáo giai cấp thống trị và cảm thông với nhân dân lao động thì Lý Bạch còn thua xa về chất lượng cũng như số lượng so với Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị. Ông chỉ vượt hai người này về thơ ca lãng mạn có nội dung tích cực. Đó là sở trường của ông, xưa nay chưa ai địch nổi, đúng như lời khen ngợi của Đỗ Phủ : “Lý Bạch thơ không ai địch nổi, siêu nhiên ý khác thường”.Thơ của ông thẳng cánh bay bổng như muốn thoát ly khỏi mặt đất, khỏi đời thường, xem thường vinh hoa phú quý như mây nổi, tìm chén rượu tiêu sầu, cầu tiên phỏng đạo và ngao du sơn thủy. Từ đó ông truyền cho thơ ca một hơi thở mới, một nội dung tân kỳ ít thấy trong văn học cổ điển.

B.   NỘI DUNG.

I.            LÍ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ HIỆN THỰC.
1.     Khái niệm.
Giá trị hiện thực là phạm vi hiện thực đời sống mà tác phẩm phản ánh. Tác phẩm nào cũng có giá trị hiện thực (Vì văn học bắt nguồn từ cuộc sống: Hiện thực đời sống sinh hoạt hàng ngày, hiện thực tình cảm, tâm lí…).
Trong văn học, những tác phẩm có tính hiện thực và giá trị hiện thực đã tồn tại rất lâu, nó được nhắc đến trước khi chủ nghĩa này xuất hiện. Thế nhưng chủ nghĩa hiện thực với tư cách là một trào lưu, một phương pháp thì chỉ mới xuất hiện vào thế kỉ 19 ở các quốc gia Pháp, Ý, Anh, Nga, sau đó ảnh hưởng tới các nước khác…
2.     Biểu hiện.
Hiện thực phản ánh trong tác phẩm vô cùng đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, nói đến giá trị hiện thực trong một tác phẩm văn học, người ta thường đề cập đến 3 nét chính:
- Phơi bày chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi khổ về vật chất hay tinh thần của những con người bé nhỏ, bất hạnh.
- Chỉ ra nguyên nhân gây ra đau khổ cho con người.
- Miêu tả tinh tế vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người.
3.     Vai trò.
- Thể hiện cái nhìn hiện thực sâu sắc hay hời hợt của nhà văn.
- Dấu hiệu của một tác phẩm có giá trị.
II.            CƠ SỞ HÌNH THÀNH “ GIÁ TRỊ HIỆN THỰC” TRONG THƠ LÍ BẠCH.
Cơ sở xã hội và ý thức hệ của chủ nghĩa hiện thực là phong trào đấu tranh của nhân dân, như ở Trung Quốc là những phong trào nông dân khởi nghĩa manh nha từ đời Đường, nhất là từ đời Tống trở đi, cùng những lý tưởng dân chủ và tư tưởng duy vật nảy ra từ đó. Trên cơ sở này, những quan niệm văn học hiện thực và nhân dân xuất hiện từ đời Đường - Bạch Cư Dị đã tiếp tục với thuyết “Văn dĩ quán đạo” của Tô Đông Pha đời Tống, với thuyết “Đồng tâm” của Lí Trác Ngô thuộc phái vương học cánh tả đời Minh, với những cách nhìn của nhà tư tưởng duy vật và dân chủ như Hoàng Tôn Hi, Cố Viên Võ, Vương Phu Chi Thanh…
Lý Bạch phản ánh trực tiếp nếp sống xa hoa của tầng lớp quan lại quý tộc, vạch trần các đế vương diễu võ dương oai, mê đắm sắc dục, bạc đãi nhân tài. Ông phản đối các cuộc chiến tranh xâm lược, xua nhân dân vào những tai họa vô cùng đau khổ.
                Gươm đao là vật gở, thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng đến.
                                                                                          (Chiến Thành Nam)
Mặc dù không phải là nhà thơ hiện thực nhưng Lý Bạch gần như lại là người đầu tiên khai phá một mảng đề tài chưa từng có trong tứ tuyệt: Thơ trữ tình chính trị. Tứ tuyệt Sơ Đường có nhiều bài viết về vấn đề thế sự, nhân sinh, nhưng một khi đã chạm tới đề tài này thì đa phần là giọng điệu triết lý lấn át chất trữ tình. Riêng ở trong thơ Lý Bạch thì trái lại. Nét đặc sắc trong những bài tứ tuyệt lấy đề tài hiện thực của Lý Bạch là nó vẫn bám theo các diễn biến thời đại nhưng lại diễn tả chúng bằng ngòi bút dạt dào chất trữ tình và vô cùng lãng mạn. Năm 756, vì loạn An - Sử, Đường Minh Hoàng phải rời Trường An về đất Thục. Vĩnh Vương Lý Lân nhận chiếu chỉ làm Giang Lăng đại đô đốc, chiêu mộ tướng sĩ, thống lĩnh đại binh tiến về đông đánh dẹp quân An - Sử. Năm 757, Đường Huyền Tông truyền ngôi cho thái tử Lý Hanh, lấy đất Thục làm Nam Kinh. Loạn An - Sử dẹp yên, Huyền Tông rời đất Thục về lại kinh đô Trường An. Hầu hết những sự kiện lịch sử lớn ấy đều được Lý Bạch ghi nhận trong hai chùm tứ tuyệt "Vĩnh Vương Đông Tuần Ca" (11 bài) và "Thượng Hoàng Tây Tuần Nam Kinh Ca" (10 bài), trong đó, ông cũng gửi gắm nhiều hoài bão và tư tưởng chính trị của mình.
 Tuy vậy, điều đáng chú ý là để diễn đạt một nội dung mang đậm tính thời sự, chính trị như vậy, Lý Bạch lại dùng hình thức tả cảnh. Ở 11 bài "Vĩnh Vương Đông Tuần Ca", ông lần lượt miêu tả cảnh ra quân hùng mạnh, khí thế của Vĩnh Vương, khói lửa liền đến biển xanh, cờ xí trập trùng vây núi biếc, chiến hạm dày đặc, binh giỏi, tướng tài... Trong 10 bài "Thượng Hoàng Tây Tuần Nam Kinh Ca", ông vẽ lên bức tranh phong cảnh kỳ vĩ của đất Thục trên đường xa giá hồi kinh, đề cao Nam kinh đẹp mà không quên hướng về cố đô. Có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử tứ tuyệt lại có những bài thơ lấy đề tài chính sự mà lại nồng đượm chất trữ tình và đẹp đẽ đến như vậy. Mặc dù về nội dung hiện thực còn có những điểm phải bàn, song nói riêng đến cách khai thác đề tài và phương thức diễn đạt thì những bài tứ tuyệt trữ tình chính trị này của Lý Bạch quả là có những nét mới mẻ đáng lưu ý.
III.            BIỂU HIỆN CỦA “GIÁ TRỊ HIỆN THỰC” TRONG THƠ LÍ BẠCH.
Lý Bạch sống vào khoảng cuối thời đại thịnh đường. Mặc dù cuộc sống lúc đó hãy còn vui tươi nhưng bên trong cái vẻ phồn vinh của nhà đường, vẫn có những cảnh đời đau thương và ngang trái. Trên thì vua chúa hoang dâm vô đạo, dưới thì quan lại tham tàn bức hiếp nhân dân gây nên những cảnh máu chảy đầu rơi. Lý Bạch là nhà thơ yêu nước đang có hoài bão lớn nhưng gặp phải cảnh đời đen tối: Giai cấp thống trị “Lấy châu ngọc mua tiếng cười điệu hát, dùng tấm cám nuôi dưỡng hiền tài” nên ông chán ghét, lấy rượu làm vui chơi say như một thế giới lý tưởng:
Này cỗ ngọc, nhạc rung chẳng chuộng
Muốn say hoài chẳng muốn tỉnh chi !
Thánh hiền tên tuổi bặt đi,
Chỉ phường thánh rượu tiếng ghi muôn đời!
Mấy câu thơ toát ra giọng u buồn, bất mãn và khinh miệt công danh. Chính trong cơn say Lý Bạch càng tỏ ra hiên ngang, dám khinh mạn triều đình và coi thường bọn quyền quý. Đỗ Phủ từng mô tả cái say của ông trong bốn câu thơ:
Lý Bạch một đau thơ trăm thiện
Rượu say nằm ngủ chợ liên miên
Lệnh vua cho gọi không xuống thuyền
Tự xưng làng rượu tớ là tiên!
           (Bài Ca Tám Tiên Trong Làng Rượu)
 Say để tiêu sầu giải muộn, để quên những cảnh đời ô trọc, đồng thời cũng để cưỡng lệnh nhà vua, để bắt nàng Dương Quý Phi cầm nghiên mực cho mình đề thơ, bắt Cao lực sĩ cởi giày cho mình ngủ, say như thế thật là hiếm có không phải ai say cũng được. Cho nên Phạm Truyền Chính là người đề trên bia mộ lí bạch viết: “Uống rượu không phải vì ham vui, lấy cái mờ mịt của nó lamg giàu cho mình”.
Bài thơ Tương Tiến Tửu ra đời vào năm 752, tức là ba năm trước khi An Lộc Sơn nổi loạn. Mâu thuẫn giai cấp lúc đó đã trở nên gay gắt. Bối cảnh lịch sử đó đã được Đỗ Phủ khái quát trong hai câu thơ:
Nhà son rượu thịt ôi
Bên đường sương chết buốt!
                            (Từ Kinh Đô Di Phụng Tiên)
Đứng trước cảnh đời giàu nghèo khác nhau một trời một vực đó, Lý Bạch đã thay mặt cho tầng lớp trí thức tiến bộ tỏ ý khinh mạn công danh và ghẻ lạnh với cuộc đời phù phiếm, như vậy là một sự thách thức đối với giai cấp thống trị. Hiện nay có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Tương Tiến Tửu là một bài thơ “Biểu hiện sự phản kháng đối với trật tự của cả một xã hội đang tồn tại”. Thiết tưởng cũng không phải là sai. Nhưng xét về ảnh hưởng của nó với đời sau thì Tương Tiến Tửu có mặt tốt, đồng thời cũng có mặt không tốt. Tốt ở chỗ nó phủ nhận công danh, phủ nhận cái hiện thực đen tối trước mắt, đưa con người đến chỗ mơ ước tự do và đòi hỏi giải phóng. Không tốt ở chỗ nó mơn trớn những người có tư tưởng cá nhân hưởng lạc. Ngay đời Đường, sau Lý Bạch còn có hơn 10 bài Tương Tiến Tửu khác, nhưng phần nhiều đều chạy theo xu hướng bi quan hoặc trụy lạc. Tương tiến tửu của Lý Hạ thời trung đường viết:
Anh hãy say, say cho túy lúy,
Rượu đào không đến mộ Lưu Linh!
 Đối với con người, Lý Bạch có một tình cảm chân thành, tha thiết. Đối với đất nước và nhân dân, Lí Bạch gắn bó, yêu thương. Vì lòng yêu nước tha thiết nên Lý Bạch thông cảm sâu sắc đối với nỗi khổ đau của nhân dân. Ông quyết tâm “Cứu giúp dân đen” “Làm yên xã tắc”. Trong bài “Tái Hạ Khúc” Lý Bạch nêu lên quyết tâm yêu nước, chống giặc ngoại xâm:
Nguyệt chi đánh tan hết,
Bấy giờ khỏe tấm than.
Hay:
Bên lưng đeo bảo kiếm,
Chí quyết chém lâu lan.
   Khi quân của Lý Lân bị Túc Tông đánh bại, từ Đan Dương chạy về Nam, Lý Bạch viết nên những vần thơ tràn đầy nhiệt tình yêu nước qua bài “Nam Bồn Thư Hoài”
Qua sông thề với nước,
Chí muốn yêu cõi bờ.
     Đối với cuộc chiến tranh dùng vũ lực, mở rộng lãnh thổ của nhà Đường, Lý Bạch cực lực phản đối. Ông không đồng tình với các cuộc chiến  tranh xâm lược các dân tộc ở Tây Bắc và Tây Nam. Bài “Chiến Tranh Thành Nam”, tác giả dùng những hình tượng nghệ thuật sinh động, rõ nét để phản ánh những tai họa nặng nề mà binh sĩ phải chịu:
Sa trường đâm nhau chết
Ngựa ai ngơ ngác nhìn hí trời
Binh lính thây bón cỏ
Tướng quân bó tay rồi.
Cuối cùng ông nêu lên một nguyên tắc đúng đắng về chiến tranh mới hay:
Gươm đao là vật gở,
Thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng thôi.
Do những nhân tố tích cực trong tư tưởng tác động đồng thời và từng lúc vào Lý Bạch nên sáng tác của ông kết hợp hài hòa giữa tính lãng mạn và tính hiện thực.
Khứ niên chiến, Tang Càn nguyên
Kim niên chiến, Thông Hà đạo
Tẩy binh điều chi hải thượng ba
Phóng mã Thiên Sơn tuyết trung thảo
Vạn lý trường chinh chiến
Tam quân tận suy lão
Hung nô dĩ sát lục vi canh tác,
Cổ lai duy kiến bạch cốt hoàng sa điền.
Tần gia trúc thành bị Hồ Xứ,
Hán gia hoàn hữu phong hỏa nhiên.
Phong hỏa nhiên bất tức,
Chinh chiến vô dĩ thì.
Dã chiến cách đấu tử,
Bại mã hào minh hướng thiên bi….
(Chiến Thành Nam)
Dịch thơ:

Năm ngoái trên sông Tang đánh nhau,
Năm nay dọc sông Thông chém giết.
Điều Chi, gươm rửa sóng ngoài khơi,
Thiên Sơn, ngựa ăn cỏ ngập tuyết.
Muôn dặm chinh chiến hoài,
Ba quân già ốm hết.
Hung Nô giết chóc thay cấy cày,
Cát vàng xương trắng xưa nay đấy !
Này dãy thành, Tần đắp ngự Hồ,
Kia lửa trận, Hán đốt đang cháy !
Lửa trận cháy chẳng tắt,
Chiến tranh mãi không thôi !
Sa trường đâm nhau chết,
Ngựa ai ngơ ngác nhìn hý trời!
(Hoàng Tạo, Tương Như dịch)
Để rồi ông kết luận rẳng:
Mới hay: Gươm đao là vật gở,
Thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng thôi!
(Hoàng Tạo, Tương Như dịch)
Thơ ông chan chứa tình yêu quê hương đất nước, đau xót trước cảnh xương rơi máu chảy:

Ẩm mã độ thu thuỷ,
Thuỷ hàn phong tự đao.
Bình sa nhật vị một,
Ảm ảm kiến Lâm Thao
Tích nhật Trường Thành chiến
Hàm ngôn ý khí cao.
Hoàng trần túc kim cổ,
Bạch cốt loạn bồng mao.
                (Tái Hạ Khúc 2)

Dịch thơ:
Ngựa qua uống nước sông thu,
Nước sông lạnh, gió vù vù cắt da.
Cát bằng dãi bóng chiều tà,
Xa trông mờ mịt ấy là Lâm Thao ?
Trường thành chiến trận thuở nào,
Muôn quân dũng khí dâng cao ngất trời.
Cổ kim cát bụi chôn vùi,
Chỉ còn xương trắng ngậm ngùi cỏ lau.
Ông chỉ mong muốn được đem trí tuệ của mình ra giúp dân, giúp nước nhưng thực tế phũ phàng khiến ông nhận ra mình chỉ là một thứ đồ trang sức cho cuộc sống xa hoa của giai cấp cung đình nên ông chống gậy lên đường, bỏ lại sau lưng vinh hoa phú quý.
     Yêu nước gắn với thương dân, Lý Bạch đau xót cho số phận của nhân dân trong vòng chiến loạn, những con người bị bắt khổ sai, làm việc như trâu như ngựa:
Đà thuyền nhất hà khổ
Thủy trọc bất khả ẩm
Hồ tương bán thành thổ
Nhất xướng “Đô hộ” ca
Tầm tồi lệ như vũ
Vạn nhân tạc bàn thạch
Vô do đạt giang hử…
     (Đinh Đô Hộ Ca)
Dịch thơ:
Người kéo thuyền khổ thật
Nước đục uống không trôi
Nửa bầu đọng thành đất
Khúc “đô hộ” cất lên
Lệ trào đau thắt ruột
Muôn người cột vào đá
Cách gì tới được bờ…
 Đối với nhân dân lao động, thái độ của Lý Bạch rất chân thành, sâu sắc. Ông thấu hiểu: “Nhà nông mùa màng khó nhọc, cô gái hàng xóm đêm khuya giã gạo lạnh lùng”. Trong bài “ Đinh Đô Hộ Ca” nhà thơ tỏ lòng đồng tình với nhân dân lao động giữa trời nắng như thiêu như đốt phải phơi trần, trải lưng kéo từng thuyền đá nặng trên sông:
Ngô ngưu suyễn nguyệt thì
Đà thuyền nhất hà khổ
Thủy trọc bất khả ẩm
Hồ tương bán thành thổ.
    Dịch thơ:
Trâu xứ Ngô thử phì phò dưới trăng
Người kéo thuyền vất vả biết bao
Nước đục ngầu không uống được
Chất lỏng trong bầu một nửa thành đất.
  Tình thương của Lý Bạch đối với nông dân (Thu Phố Ca), nông dân và tập trung cao độ là phụ nữ. Trong bài “Thiếp Bạc Mệnh” và “ Bạch Đầu Ngâm” ông đả kích tình trạng có mới nới cũ của đàn ông, đồng thời nêu lên nỗi khỗ đau tủi hờn của người phụ nữ có chồng bị ruồng bỏ. Trong bài “Dạ Tọa Ngâm” và “Dương Bạn Nhi”  nhà thơ nói lên tình yêu chân chính phải được xây dựng trên cơ sở nam nữ phải hiểu biết và thất sự thương yêu nhau. Muốn thực sự hạnh phúc dài lâu, họ phải thương yêu nhau, tâm đầu ý hợp.
 Tình yêu của người chinh phụ cũng là một nội dung nổi bật trong thơ Lí  Bạch. Các bài “Ô Thê Khúc”, “Ô Dạ Đề”, “Đảo Y Thiên”, “Quan Sơn Nguyệt”, “Song Yến Ly” và “Xuân Tứ” đều nói lên tình cảm đau khổ, xót xa, chia lìa giữa chinh phụ và chinh phụ. Bài “Xuân Tứ” có nỗi buồn thương triền miên không gì bù đắp nổi người vợ có chồng đi chinh chiến lâu ngày. Cái cảm xúc “gió động màn” của người vợ trẻ phòng không gối chiêc ấy, chỉ có người trong cuộc mới có. Chứng tỏ nhà thơ am hiểu sau sắc nhân vật của mình:
Khi chàng tưởng nhớ ngày về
Chính là khi thiếp tái tê nỗi lòng
Gió xuân ai biết cho cùng
Cớ sao len lỏi vào trong màn là?
Trong bài “Ô Dạ Đề” lại càng day dứt hơn:
Tần Xuyên cô gái buồng thêu,
Song sa khói tỏa khêu chuyện ngoài,
Dừng thoi buồn bã nhớ ai,
Phòng không chiếc bóng giọt dài tuôn mưa.
 “Trường Can Hành” và “ Giang Hạ Hành” là hai bài thơ tình yêu sâu sắc của Lý Bạch. Hai bài thơ toát lên chủ đề chung là sự đồng cảm, xót thương của Lý Bạch đối với những đau khỗ của người phụ nữ có chồng là thương nhân, ham lợi, đi buôn bán xa không quan tâm, lo nghĩ gì đến tình cảm lẻ loi, đơn chiếc và đầy lo âu của người vợ ở nhà. Kết thúc bài “Giang Hạ Hành” là những câu chua xót:
Thà lấy chồng nghèo khổ,
Sớm tối có bên nhau,
Chớ làm vợ khách thương,
Để đời ta đau khổ.
   Do Lý Bạch sống chủ yếu ở thời thịnh Đường, lại do khát khao cái đẹp, cái bay bổng diệu kỳ của một nhà thơ lãng mạn mà ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ và nói đến những trăn trở thầm khín của họ. Tuy nhiên bất kể đối tượng xã hội nào, nếu là người đẹp, một vẻ đẹp đầy nữ tính đều tạo nên nguồn cảm hứng mạnh cho nhà thơ. Bài “Thái Liên Khúc” miêu tả cô gái hái sen thoắt ẩn thoắt hiện giữa một không gian đầy hoa, hoa trên đầm sen, hoa dưới nước. Mấy cô thôn nữ đã hiện về như những nàng tiên giáng trần. Ba bài Thanh bình đệu tả vẻ đẹp của nàng Dương Quý Phi thật mê hồn. Nhưng điều cần nói là trong mắt Lý Bạch, Dương Quý Phi không hiện lên với vẻ đẹp kiêu sa của một cung phi mà chỉ là vẻ đẹp của một người đẹp trong suốt và ẻo lả. ta nhớ lời thơ của ông:
Nước trong sẽ nở hoa sen,
Thiên nhiên là đẹp chớ nên vẽ vời.
Bởi vậy, lòng đồng cảm của ông dành cho phụ nữ là lòng đồng cảm với phái đẹp và cũng là phái yếu. Ông hiểu thấu nỗi trăn trở đầy nữ tính của họ.
  Lý Bạch đặc biệt chú ý đến những người phụ nữ với một tấm lòng nhân đạo đáng quý. Ông phê phán hành động bất nghĩa, “Có mới nới cũ” của cánh nam nhi, nói lên nỗi đau khổ của người phụ nữ bị ruồng bỏ, phụ bạc:
Ngai như sơn thượng tuyết,
Kiểu nhược vân gian nguyệt.
Văn quân hữu lưỡng ý,
Cố lai tương quyết tuyệt.
Kim nhật đấu tửu hội,
Minh đán câu thuỷ đầu.
Tiệp điệp ngự câu thượng,
Câu thuỷ đông tây lưu.
           (Bạch Đầu Ngâm)
Dịch thơ:

Trắng như tuyết trên núi,
Sáng tựa trăng giữa mây.
Nghe lòng chàng hai ý,
Thiếp đành đoạn tình này.
Hôm nay chén sum họp,
Đầu sông tiễn sớm mai.
Lững thững theo dòng nước,
Nước mãi chảy đông tây.
Đồng thời ông phản ánh mơ ước của những người phụ nữ về một tình yêu chung thủy, một hạnh phúc chân chính:
Quân ca Dương bạn nhi
Thiếp khuyến Tần Phong tửu
Hà hứa tối quan nhân
Ðiểu đề Bạch môn liễu
Ðiểu đề Ẩn Dương hoa
Quân tuý lưu thiếp gia
Bác Sơn lư trung trầm hương hoả
Song yên nhất khí lăng tử hà.
                            (Dương Bạn Nhi)
Dịch thơ:
Chàng hát "Dương Bạn Nhi"
Thiếp mời Tần Phong tửu
Hai người thật thân tình
Cửa Bạch chim hót liễu
Ẩn Dương chim hót hoa
Chàng say, thiếp nhớ nhà
Trong lò Bác Sơn trầm hương toả
Hai làn một ý vượt ráng pha.
Lý Bạch còn hết lời ca ngợi vẻ đẹp thuần khiết của người phụ nữ:
Nhược Da khê bàng thái liên nữ,
Tiếu cách hà hoa cộng nhân ngữ.
Nhật chiếu tân trang thuỷ để minh,
Phong phiêu hương duệ không trung cử.
                                    (Thái Liên Khúc)
Dịch thơ:
Mấy gái hái sen ven suối Nhược
Trong hoa cười nói vang lên trước
Gió lay tà áo thoáng trên không
Nắng dọi phấn son lồng ánh nước.
Phải chăng vì tính tình hết sức tự phụ, nhân cách độc lập tự tin, kiêu căng, khí phách phóng khoáng, tình cảm lãng mạn đã ảnh hưởng một phần đến tư tưởng của Lý Bạch trong cuộc đời cũng như trong sáng tác. Từ khi làm bạn với Mạnh Hạo Nhiên, ông tha thiết được hoạt động kinh bang tế thế, với mong muốn “làm rõ lời bàn của Quản Trọng, Án Anh, tính mưu chước của đế vương, đem tài năng trí tuệ giúp nhà vua để cho thiên hạ yên ổn, bốn bể thanh bình” (trích Đại Thọ sơn đáp Mạnh thiếu phủ di văn). Nhưng do tính tình như thế, ông thường ví mình với Lã Vọng, Trương Lương, Gia Cát Lượng, thái độ “không chịu khom mình”, “không cầu cạnh ai”, “giao thiệp ngang hàng với chư hầu” nên không được giới chính trị hoan nghênh. Làm quan dưới đời vua Đường Minh Hoàng, được vua trọng dụng nên ông ngỡ tưởng mình có thể thực hiện được lý tưởng của mình nhưng chốn quan trường lại vô vàn sóng gió. Khi vua chúa không còn bậc minh quân nữa thì hiền tài như Lý Bạch cũng trở thành một thứ “văn chương ngự dụng” mà thôi. Lại một lần nữa không ai thấu hiểu chí Lý Bạch, ông căm phẫn cho cảnh “cát lẫn ngọc sang, cỏ lẫn chồi hoa thơm”, lại thêm nhận thức về hủ bại, thối nát của triều đình, ông đã cáo quan về quê, tiếp tục đời sống giang hồ lãng tử, để cho ý thơ tung cánh khắp bầu trời bao la.
Thơ Lý Bạch được cho là vượt quá cống hiến về lý luận, nghĩa là ông chỉ sáng tác, chứ không lý luận. Tuy nhiên qua thơ ca của ông, chúng ta có thể thoáng thấy được quan niệm làm thơ của Lý Bạch “kế thừa có phê phán, phục cổ để cách tân”. Thời trẻ, ông đã “thuộc làu thi thư, xem sách bách gia” nên ảnh hưởng của người đi trước đối với ông rất rộng rãi, phức tạp. Như vậy có nghĩa là tư tưởng Đạo gia và Nho gia đều tác động vào ông, nhưng Đạo gia sâu sắc hơn nhiều. Ngay cả tư tưởng du hiệp cũng góp phần hình thành phong cách đặc biệt của ông. Tư tưởng “kiêm thế thiên hạ”của Nho gia chiếm ưu thế khi ông định xây dựng sự nghiệp chính trị. Ông nguyện “cứu dân đen”, “làm cho dân đen được an cư lạc nghiệp” chứ không vì vinh hoa phú quý, càng không vì vua chúa quý tộc. Theo gót Lão Tử, nhất là Trang Chu, ông dùng tưởng tượng để đi sâu vào bí mật của vũ trụ, tạo nên tinh thần và cách biểu hiện lãng mạn trong thi ca. Với sự coi thường vinh hoa phú quý, tự tin vào tài năng, hay mang theo hoài bão cứu nhân độ thế ít nhiều gợi nên thái độ “phản nghịch” đối với chế độ phong kiến khiến thơ ông mang ý vị siêu thoát, thể hiện khí thế hùng tráng, cao rộng.

C.   KẾT LUẬN


  Lý Bạch là nhà thơ lớn đời Đường, một ngôi sao sáng chói trên thi đàn Trung Quốc cho đến ngày nay và hiển nhiên hơn một ngàn bài thơ của ông vẫn còn có sức ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử văn học. Thơ ông không cầu kì mà giản dị, tự nhiên, ý thơ sâu sắc, có sức truyền cảm mạnh mẽ, quyến rũ một cách lạ thường, đơn giản chỉ là:
… Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.
                                                             (Tĩnh Dạ Tử)
 Cái tên Ký Bạch đã gắn chặt vào lòng nhân dân cũng như độc giả ông, thơ ông hiện lên đầy đủ nét tâm hồn con người Trung Quốc “Văn chương Lý - Đỗ người đời khó sánh kịp”. Mặc dù thiên về những vần thơ bay bổng lãng mạn nhưng sự thành công của Lý Bạch trên dòng thơ ca không chỉ riêng về một mảng đề tài nào mà luôn song hành giữa bút pháp lãng mạn xen lẫn hiện thực gắn liền với cuộc sống đời thường, với những con người ở tầng lớp dưới của xã hội để người đời kết luận rằng Lý Bạch xứng đáng là một trong những tên tuổi tiêu biểu cho đỉnh cao thơ ca cổ điển Trung Quốc.

D.   TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.     Văn Học Trung Quốc – Lương Duy Thứ – Nxb Đại Học Quốc Gia TP. HCM.
2.     Đến Với Đường Thi Tuyệt Cú – Hồ Sĩ Hiệp – Đại Học Sư Phạm TP. HCM.
3.     Lý Luận Văn Học – Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa, Thành Thế Thái Bình – Nxb giáo dục.
4.     Trang web:
-         Http://w.w.w.tailieu.com
-         Http://w.w.w.thivien.net