MỤC LỤC
1. Giới
thiệu khái quát về tác giả Shakespeare và vở kịch Hamlet......................................... 1
1.1.
Tác
giả................................................................................................................. 1
1.2.
Tác
phẩm............................................................................................................. 4
2. Nhân
vật HamLet trong vở kịch HamLet........................................................................... 4
2.1
Hamlet
– nhân vật bi kịch ................................................................................... 4
2.1.1.
Khái
niệm nhân vật bi kịch ....................................................................... 4
2.1.2.
Bi
kịch từ xung đột giữa lí tưởng và hiện thực xã hội................................. 8
2.1.3.
Bi
kịch từ chính tính cách nhân vật............................................................ 24
a.
Bi
kịch của một con người trí tuệ.............................................................. 24
b.
Bi
kịch của một cá nhân cô độc................................................................ 28
2.2.
Những
chủ đề được gợi ra từ bi kịch của nhân vật Hamlet................................. 32
2.3.
Hamlet
– con người hội tụ mọi tố chất
của một con người Phục Hưng............................................................................ 33
3. Nghệ
thuật xây dựng tính cách nhân vật......................................................................... 38
4. Mối
quan hệ giữa tư tưởng chủ đề của nhân vật với văn học,
1.Giới
thiệu khái quát về tác giả shakespare và vở kịch Hamlet
1.1.Tác giả
William Shakespeare
(1564-1616) là nhà viết kịch và nhà thơ bậc nhất của nước
Anh được coi là nhà văn vĩ đại nhất của Anh và là nhà viết kịch đi trước thời đại đồng thời cũng là tác giả danh tiếng nhất
trên Thế Giới. Ông cũng được vinh danh là nhà thơ tiêu biểu của nước Anh và là
"Nhà thơ của Avon" (Avon là quê của Shakespeare). Thiên tài của
Shakespeare là độc nhất vô nhị, chỉ mình ông thôi cũng đủ thâu tóm hết cả nền kịch
nghệ thế giới. Giải thích sự vĩ đại của Shakespeare, Puskin – đại văn hào Nga –
khẳng định: “Bi kịch của Shakespeare nói lên điều gì? Mục đích của bi kịch là
gì? Đó là con người và nhân dân. Đó là số phận của nhân loại… chính điều đó làm
cho Shakespeare vĩ đại.”
Shakespeare được sinh
ra và sinh trưởng tại Stratford-upon-Avon. Vào năm 18 tuổi, ông kết hôn với
Anne Hathaway và có ba người con, đó là Susanna Hall và cặp đôi song sinh,
Hamnet Shakespeare và Judith Quiney. Trong những năm từ 1585-1592, sự nghiệp của
ông thành công vang dội tại thủ đô Luân Đôn với vai trò là một diễn viên, nhà
văn và đôi lúc là người sở hữu của một công ty kịch Lord Chamberlain's Men, với
tên gọi sau đó là King's Men. Ông quay về quê Stratford để nghỉ hưu vào năm
1613, lúc ông 49 tuổi, sau đó 3 năm ông qua đời tại đấy.
Hầu hết các tác phẩm
nổi tiếng nhất của ông được ông sáng tác trong giai đoạn từ 1589 đến 1613. Kịch
Shakespeare được chia thành 3 loại là hài kịch, lịch sử và bi kịch với mọi loại
nhân vật như vua chúa, tướng lãnh, các nhà triết học, các kẻ chăn cừu, các tay
nghiện rượu, các kẻ móc túi… cho đến những tên giết mướn. Vở kịch đầu tiên của
ông chủ yếu là hài kịch và kịch lịch sử, những thể loại này được ông tăng lên sự
tinh tế của nghệ thuật vào cuối thế kỉ XVI. Sau đó, ông sáng tác chủ yếu là bi
kịch đến năm 1608, bao gồm các tác phẩm Hamlet, Vua Lear, Othello và Macbeth, gồm
một vài tác phẩm nổi tiếng nhất của ông bằng tiếng Anh. Trong giai đoạn cuối
cùng của sự nghiệp sáng tác, ông sáng tác những vở kịch buồn (tragicomedies),
hay còn gọi là lãng mạn, và hợp tác với một số nhà viết kịch khác. Những vở kịch
của ông đã được dịch ra thành rất nhiều ngôn ngữ lớn và được trình diễn nhiều
hơn bất kì nhà viết kịch nào. Không một nhà văn nào có các tác phẩm được nhiều
người tại nhiều quốc gia tìm đọc hơn William Shakespeare bởi vì Đại Văn Hào
Shakespeare đã hiểu rõ bản chất của con người, đã nhìn rõ các hoàn cảnh đặc biệt
mà con người sinh hoạt, đã tạo ra các nhân vật trong các vở kịch mang nhiều ý
nghĩa ra ngoài thời gian và không gian. Những nhân vật này đã tranh đấu giống
như mọi người trong đời sống hàng ngày, đôi khi họ thành công, nhưng cũng có
khi họ gặp thất bại cay đắng, bi thương.
Các vở kịch của
William Shakepeare đã được phổ biến khắp nơi, gây nên ảnh hưởng lớn lao về văn
hóa trên toàn thế giời. Nhiều từ và câu trong các vở kịch và bài thơ của
William Shakespeare đã ở trong câu nói hàng ngày của nhiều dân tộc. Các tác phẩm
của William Shakespeare đã giúp công vào việc hình thành nền văn học của tất cả
các quốc gia nói tiếng Anh và không nói tiếng Anh như hai nước Đức và Nga. Các
ý tưởng của William Shakespeare về các vấn đề như tình yêu lãng mạn, tính anh
hùng hay bản chất của bi kịch đã tạo ảnh hưởng tới thái độ của hàng triệu người.
Hơn nữa, các hình ảnh do William Shakespeare mô tả như Julius Caesar, Mark
Anthony và Cleopatra đã gây ấn tượng đến chúng ta hơn các cuốn sách lịch sử.
Các vở kịch, các bài thơ của William Shakespeare đã được in thành sách, dịch
sang các ngôn ngữ khác nhau và hàng ngàn học giả vẫn nghiên cứu các tác phẩm của
William Shakespeare cũng như các nhà soạn nhạc đã dựa vào các câu chuyện và
nhân vật của William Shakespeare để soạn ra các nhạc kịch danh tiếng, đồng thời
các nhà làm phim đã chuyển các vở kịch của William Shakespeare thành các bộ
phim hấp dẫn trình chiếu khắp nơi trên thế giới.
Shakespeare viết hơn 40 vở kịch,
tất cả đều dưới dạng thơ, và được chia thành 3 loại:
-
Hài
kịch: All's Well That Ends Well, As You Like It, Giông tố (Shakespeare), ….
-
Bi
kịch: Antony and Cleopatra, Hamlet, Othello, Macbeth, Romeo and Juliet, ….
-
Kịch
thất lạc: Love's Labour's Won, Cardenio
1.2.Tác phẩm
Nhan
đề đầy đủ là Bi kịch Hamlet, Hoàng tử Đan Mạch (Tragedy of Hamlet, Prince of
Denmark), được Shakespeare viết vào khoảng 1601 và được công diễn vào 1602. Ban
đầu, Shakespeare viết Hamlet theo thể melodrame (kịch tuồng), một hình thức sân
khấu thịnh hành ở nước Anh thời ấy. Nhưng rồi qua nhiều lần trình diễn, ông sửa
chữa dần thành kịch nói. Văn bản được in thành sách vào năm 1623 và được dùng
cho đến ngày nay.
Hamlet có cốt truyện
phỏng theo câu chuyện cổ Đan Mạch. Truyện này được Saxo Grammaticus, một thầy
tu Đan Mạch sống vào thế kỉ XII, ghi lại trong cuốn truyện lịch sử Đan Mạch.
Tuy rằng kịch bản dựa trên câu chuyện đó nhưng
tư tưởng cũng như tính cách nhân vật của Shakespeare hoàn toàn khác với
hai câu chuyện kia. Nội dung chính như sau: Horwendil và Feng là hai anh em
sinh trưởng ở xứ Zealand. Horwendil tài hoa, đánh thắng vua Na Uy trong cuộc đấu
tay đôi và làm rể vua Đan Mạch. Horvvenđil lên ngôi vua sau khi vua Đan Mạch
qua đời. Do ghen ghét anh, Feng lập mưu giết Horwenđil, lên nối ngôi và lấy chị
dâu. Con trai của Horwendil là Amleth giả điên để tìm cách trốn tránh và báo
thù. Feng không tin, cho người nấp sau rèm rình nghe cuộc nói chuyện giữa
Amleth và Hoàng hậu. Amleth phát hiện và giết chết kẻ đó. Feng phái Amleth sang
Anh với bức thư yêu cầu vua Anh giết Amleth. Amleth đánh tráo thư, yêu cầu vua
Anh chém hai kẻ tháp tùng và gả công chúa cho Amleth. Một năm sau, Amleth từ biệt
vợ, trở về giết chết Feng và lên ngôi vua.
Đánh giá về tác phẩm,
nhiều nhà nghiên cứu nhận định Hamlet thực sự là một trong những bi kịch nổi tiếng
nhất của lịch sử sân khấu thế giới. Hamlet mở đầu giai đoạn sáng tác bi kịch của
Shakespeare, là vở kịch có ý nghĩa tâm lý lịch sử sâu sắc nhất của ông. Tác phẩm
phản ánh được tinh thần của thời đại với sự khủng hoảng, bế tắc của lý tưởng
nhân văn chủ nghĩa. Trong sự bát nháo của hoàn cảnh tư sản Anh mới ra đời “mình
đã tắm đầy máu”, một xã hội với
"nhà tù", "sự bẩn thỉu", "phải hàng vạn người mới nhặt
ra được một kẻ lương thiện" vẫn lóe sáng những hạt vàng của chủ nghĩa nhân
văn. Hamlet là một nhân vật hết sức đặc
biệt, chưa từng có trong nền văn hóa trước đó, cũng như không thể có sau này.
Hamlet không chỉ quan tâm đến nghĩa vụ trả thù và ngai vàng mà quan tâm hơn hết
đến phẩm giá, lẽ sống và lối sống con người. Thực tế xã hội xấu xa mâu thuẫn với
lý tưởng của chàng, khiến chàng phải đánh giá lại tất cả và tìm cho mình một
thái độ cư xử phải đạo. Quá trình đánh giá thực tế và xác định đó đã gây ra
trong tâm hồn Hamlet những phút đau đớn, bi quan, hoài nghi, do dự, những phút
trăn trở "tồn tại hay không tồn tại" (to be or not to be), những phút
"chịu đựng hay vùng lên chống lại". Cuối cùng, Hamlet đã tìm ra được
chân lý đấu tranh nhưng vì đơn độc và thiếu cảnh giác nên chàng đã gục ngã vì cạm
bẫy của kẻ thù.
Ngày nay, trong văn học
thế giới vẫn tồn tại khái niệm "bệnh Hamlet" chỉ thái độ suy tư, lý
luận nhiều nhưng không đủ tin tưởng và dũng khí để hành động cụ thể. Nhưng dù
sao chăng nữa, Hamlet cũng sống mãi trong lòng độc giả thế giới, với bi kịch của
cuộc đời chàng phản ánh mâu thuẫn tất yếu của sự phát triển, của cuộc đấu tranh
giữa cái đẹp và cái xấu trong tồn tại xã hội. Hamlet sẽ luôn làm nảy sinh trong
lòng người muôn đời sau không chỉ tâm trạng trước nỗi buồn mà còn cả những xúc
cảm thẩm mĩ, hướng họ đến những suy cảm về cái cao cả luôn hiện hữu giữa cõi đời
trong đục.
2.
Nhân vật HamLet trong vở kịch
HamLet
2.1.
Hamlet
– nhân vật bi kịch
2.1.1.
Khái
niệm nhân vật bi kịch
Trước hết để hiểu và định nghĩa về khái
niệm nhân vật bi kịch thì cần hiểu được khái niệm bi kịch trong kịch là gì.
Bi kịch là một thể loại hình kịch, thường được coi như là
đối lập với hài kịch. Bi kịch phản ánh không phải bằng tự sự mà bằng hành động
của nhân vật chính, mối xung đột không thể điều hoà được giữa cái thiện và cái
ác, cái cao cả và cái thấp hèn,…diễn ra trong một tình huống cực kì căng thẳng
mà nhân vật thường chỉ thoát ra khỏi nó bằng cái chết bi thảm gây nên những suy
tư và xúc động mạnh mẽ đối với công chúng. Theo
Arisitote (384 – 322 tcn), bi kịch là “Sự
mô phỏng một hành động quan trọng và trọn vẹn có một quy mô nhất định” nhằm
“dùng hành động chứ không phải bằng kể
chuyện, qua cách khêu gợi lên sự xót thương và sợ hãi, thực hiện sự thanh lọc
các cảm xúc đó”. (Nghệ thuật thi ca, chương 6).
Như vậy, bi kịch sẽ không còn là bi kịch nữa nếu người
xem không bị rung động bởi nhân vật và nếu toàn bộ nỗi đau khổ, xúc động và khiếp
sợ không dẫn tới một giải quyết nào đó về tình cảm theo hướng tích cực. Nhân loại
tìm thấy ở các tác phẩm bi kịch những gì khủng khiếp mà cái ác có thể reo rắc,
áp đặt cho mình, do đó không thể bàng quan và khuất phục trước sức mạnh tàn bạo
của nó được. Theo Aristotle, “bi kịch không phải là sự mô phỏng con người, mà là sự
mô phỏng hành động và cuộc sống, niềm hạnh phúc và điều bất hạnh, mà hạnh phúc
hay bất hạnh đều nằm trong hành động; và mục đích của bi kịch là miêu tả một
hành động nào đó, chứ không phải miêu tả phẩm chất của con người. Tính cách quyết
định tính chất của mỗi người, còn hành động thì quyết định hạnh phúc hay bất hạnh”. Do vậy mà trong tác phẩm kịch, nhân vật
bi kịch hiện lên chân thực với những hàng động, suy nghĩ, nội tâm vô cùng phức
tạp, phong phú.
Quan niệm về nhân vật bi kịch là những con người trung
bình về phẩm chất. Họ là những con người
trong chính hoàn cảnh đau khổ đã thể hiện một cách rõ nét nhất phẩm giá cao quý
của mình. Họ luôn luôn có khát vọng vươn tới đạo đức cao cả, và phẩm chất đẹp đẽ
của con người là động cơ chi phối các hành động của họ, đồng thời dẫn họ tới tấn
bi kịch thê thảm. Nhân vật bi kịch phải là những con người rất tốt, tốt nhất so
với những con người trong thực tế. Trong xung đột với cái xấu, những người tốt
gặp nhiều bất hạnh thậm chí bị giết hại thảm khốc. Nhưng những cái chết của họ
không uổng phí, họ được người đời ca ngợi, vẽ chân dung họ và khắc họa những
chân dung đó thật đẹp, đẹp đến mức “đẹp
hơn thực” để treo trước cuộc đời một tấm gương. Tấm gương đó là một bài học
đường đời nó giúp con người tránh điều ác, làm điều thiện. Bi kịch làm trong sạch
những cảm xúc tương tự qua cách khêu gợi xót thương và khủng khiếp. Ngoài ra nó
còn khích lệ con người đấu tranh cho lý tưởng sống, hi sinh cho lý tưởng ấy.
Chính vì vậy, cuộc đời của những nhân vật bi kịch trở thành những thiên anh
hùng ca đẫm lệ. Kết cục bi thảm của số phận nhân vật kịch thường có ý nghĩa thức
tỉnh dự báo về một cái gì đó tốt đẹp hơn sẽ nảy sinh trong một cuộc sống và
trong mỗi con người. Trong bi kịch, qua cái chết của nhân vật chính, người ta
tìm thấy cái thiêng liêng vô giá của sự sống chân chính và cái bất tử của cộng
đồng. Vì thế nhân vật chính của bi kịch thường là nhân vật anh hùng với ý nghĩa
cao cả.
Hơn nữa, tùy thuộc vào từng thời kì, tùy sự chi phối của
các yếu tố trong tác phẩm bi kịch như đề tài, chủ đề, đối tượng phản ánh… mà
hình tượng nhân vật lại có những đặc điểm riêng. Thời cổ đại, nhân vật bi kịch
là những con người “khổng lồ” đại diện
cho thế giới thần linh đến hiện đại đó lại là những con người bình thường của đời
sống hằng ngày với những khát khao bình dị của đời sống. Nhưng nhìn chung, nhân
vật bi kịch vẫn là những con người luôn đấu tranh cho lý tưởng tốt đẹp dù ở bi
kịch hiện đại, họ không còn quá tin tưởng vào những gì tốt đẹp cho con người và
giáo lý tối hậu mà chúng ta tìm thấy trong các vở bi kịch cổ xa.
Từ kịch Hi Lạp cổ đại cho đến bi kịch
Phục Hưng, ở mỗi thời kì, thể loại này có những đối tượng phản ánh khác nhau.
Bi kịch Hi Lạp cổ đại do những đặc điểm về đề tài thường lấy trong thần thoại,
truyền thuyết nhằm phản ánh những xung đột giữa con người với định mệnh. Trong
bi kịch Hi La cổ đại, nhân vật chủ yếu là các đấng thần linh, hoặc mang trong
mình nhiều yếu tố của thần linh và chịu sự khống chế của tư tưởng định mệnh rõ
ràng. Nhân vật trong bi kịch của Esin với tư tưởng số mệnh là cái tất yếu không
thể tránh khỏi. Nó là “luật lệ” được
sinh ra bởi thần thánh, bởi ba nàng Pacto (ba nữa thần số mệnh). Những nhân vật
ấy nhận thức được số mệnh, nhận thức được cái tất yếu, và họ hành động theo ý
chí tự do trong cái tất yếu đó. Trong Ơrexto, nhân vật Ởrexto biết rằng nếu giết
mẹ mình sẽ bị các nữ thần phục thù hãm hại nhưng vẫn hành động. Hay nhân vật của
Sophoclo lại là những con người với nỗi đau, buồn vui do chính mình gây nên.
Nhân vật của ông là những con người dám chịu trách nhiệm trước số phận của
mình. Vấn đề số mệnh trong kịch Sophoclo cùng các vị thần đã bị đẩy lùi ra phía
sau sự kiện. Tuy nhiên, nó vẫn còn có tác động những quy luật tất yếu. Các nhân
vật của ông với khát vọng vươn tới đạo đức cao cả, phẩm chất tốt đẹp những cuối
cùng vẫn rơi vào bi kịch.
Nhân vật trong bi kịch Hi La cổ đại là những hình tượng
khá nổi bật. Đó là những con người mang trong mình những phẩm chất của thần
linh, tôn giáo. Họ được xây dựng dựa trên những quan niệm đạo đức thẩm mĩ duy
nhất, phù hợp với bản chất có sẵn. Họ ít khi được đề cập đến những mặt tính
cách cá nhân điển hình. Điều này khác với bi kịch hiện đại sau này: Nhân vật có
tính cách như nó tồn tại, dù có theo đuổi những mục tiêu riêng chính đáng hoặc
bị lôi cuốn vào những điều bất công tội lỗi. Sau này, Shakespear với tác phẩm kịch
Hamlet đã khẳng định rõ sự khác biệt đó. Tuy
nhiên không một ai có thể nói là mình đã hiểu hết Hamlet. Nếu ở thế kỉ XVII –
XVIII, người ta thiên về cách hiểu Hamlet là “bi kịch ngai vàng” hay “bi kịch
trả thù đẫm máu”… thì sang thế kỉ XIX, XX người ta thiên về ý nghĩa xã hội
của vở kịch hơn. Puskin đặt Hamlet trong nguyên tắc xây dựng nhân vật của
Shakespeare,“Những nhân vật do
Shakespeare xây dựng không phải là một bản chất như ở Môlie, không phải là điển
hình cho một dục vọng nào đó, một thói hư tật xấu nào đó, mà là những con người
sinh động (…) phơi bày ra trước mắt người xem những tính cách đa dạng của họ”.
Như vậy, nhân vật
bi kịch trong các vở bi kịch là những hình tượng trung tâm của bi kịch.
Thông qua số phận, cuộc đời của các nhân vật, nhà văn tái hiện được hiện thực
cuộc sống và thể hiện những giá trị tinh thần của người cầm bút. Nhân vật bi kịch có thể là những con người
mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp thể hiện những giá trị trong sáng của đời
sống: Romeo, Juliet…cũng có khi thể hiện bản chất của cái ác: Macbet,
Clodiut. Nhưng phần đông họ là những con
người luôn tồn tại những mặt đối lập giữa cái tốt và cái xấu, sự thông minh trí
tuệ hiện hữu cùng sự hoài nghi, bi quan. Chính trong bi kịch, hành động của
các nhân vật dẫn đến tấm thảm kịch khó tránh khỏi đối với cuộc đời của họ. Vì lẽ
đó, nhân vật bi kịch – một người trên mức bình thường về địa vị và tính cách phải
chịu một sự thay đổi của số mệnh. Nỗi bất hạnh của anh ta là do số phận và sai
lầm gây ra chứ không đơn thuần do bản chất hung bạo và ngu ngốc của anh ta.
2.1.2.
Bi
kịch từ xung đột giữa lí tưởng và hiện thực xã hội
Trong mĩ học của chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn phổ
biến thuyết “lỗi lầm bi kịch”. Quan
điểm này cho rằng: “Nhân vật bi kịch có
nhiều nhược điểm trong tính cách nên dẫn đến hậu quả bi thảm”. Theo Aristote, ông không đòi hỏi nhân vật
bi kịch phải là những con người hoàn hảo và ngược lại. Với ông, nhân vật bi kịch tức là những nhân vật mà “bất hạnh của họ gây nên những thảm họa
trong bi kịch”. Họ không hoàn
toàn tốt hoặc hoàn toàn xấu. Ông chống lại lối thể hiện họ là những con người tốt
tuyệt vời vì sự trừng phạt một người quá tốt phải chịu sẽ gây cho người xem sự
căm phẫn hơn là thương xót. Và chống lại lối thể hiện họ hoàn toàn ác, bởi lẽ
không ai lại thương xót kẻ đê tiện.
Như vậy về phía phẩm chất tinh thần họ phải là những người trung bình. Nói cách
khác họ có đức hạnh nhưng có những điểm yếu và những bất hạnh phải giáng xuống
đầu họ do một sai lầm nào đó có khả năng gợi nên sự thương xót chứ không phải
là căm ghét đối với họ.
Với Hamlet trong Hamlet
của Shakespeare, sau cái chết của vua cha,
người tượng trưng cho kiểu mẫu lí tưởng Phục hưng, Hamlet bị ném ra bên lề cuộc
đời. Mặc dù những kẻ trong cuộc mời mọc, hứa hẹn nhưng chàng hiểu rõ mình không
thuộc thế giới của họ. Cuộc chơi của những kết cánh, độc ác, lọc lừa, thủ đoạn…
không phải là cuộc chơi của Hamlet. Chàng muốn tìm, muốn trông thấy một thế giới
khác. Không phải ngẫu nhiên mà Shakespeare để Hamlet băn khoăn nhiều về ý nghĩa
của sự sống và cả cái chết. “Chết”, theo
Hamlet, “là ngủ. Không hơn”. Tuy
nhiên những ai chọn cái chết khi chưa thực hiện xong nghĩa vụ (tranh đấu cho lẽ
phải) trên đời thì cũng sẽ không có được giấc ngủ bình yên, “Vì, trong giấc ngủ của cõi chết ấy, khi ta
đã thoát khỏi cái thân xác trần tục này, những giấc mơ nào sẽ tới, điều đó làm
ta phải ngừng lại mà suy nghĩ. Chính điều đó gây ra bao tai họa cho cuộc sống dằng
dặc này”. Cũng còn một kiểu chết nữa, tuy Hamlet không trực tiếp nói rõ
nhưng ta vẫn hiểu, “Con người còn có ra
gì, nếu đem tất cả phần tinh túy và giá trị của đời mình vào việc ăn, việc nghỉ?
Chỉ là con vật, không hơn. Thật thế”. Do vậy con người cần phải sống. Sống
đồng nghĩa với hành động vì lẽ thiện, “Sống,
hay không nên sống – đó là vấn đề. Chịu đựng tất cả những viên đá, những mũi
tên của số mệnh phũ phàng, hay là cầm vũ khí vùng lên mà chống lại để mà tiêu
diệt chúng đi, đằng nào cao quý hơn?. Lẽ tất nhiên, Hamlet sẽ chọn con đường
“cầm vũ khí vùng lên”. Trong quá trình đánh giá thực tế
và xác định thực tế đã gây ra trong tâm hồn Hamlet những phút đau đớn, bi quan,
hoài nghi, do dự, những phút trăn trở. Cuối cùng, Hamlet đã tìm ra được chân lý đấu
tranh nhưng vì đơn độc và thiếu cảnh giác nên chàng đã gục ngã vì cạm bẫy của kẻ
thù
Với Hamlet,
tác phẩm phản ánh được tinh thần của thời đại với sự khủng hoảng, bế tắc của
lý tưởng nhân văn chủ nghĩa. Không mang không
khí lãng mạn vui tươi và lý tưởng lạc quan tốt đẹp của những vở kịch vui, bi kịch
của Shakespeare mang suy tư nặng nề về các mối xung đột, mà trước hết là xung đột
giữa lý tưởng nhân văn và hiện thực xấu xa của xã hội được ông thể hiện rất cụ
thể trong vở kịch.
Trước hết, kịch Shakespeare là sự phản ánh hiện
thực xấu xa của xã hội. Vào cuối thời kỳ thống trị của nữ hoàng
Elizabeth, các thế lực phong kiến đua nhau tranh quyền đoạt lợi, giai cấp tư sản
mới vươn lên nhưng nhu nhược, đời sống nhân dân cơ cực, chịu sự áp bức bóc lột
nặng nề của các thế lực phong kiến, Shakespeare đã vẽ bức tranh xã hội bằng
ngôn từ uất ức đau khổ nhưng tràn đầy niềm hy vọng và niềm tin ngoan cường, bất
khuất.
Mở màn cho một thời đại đảo điên tan tác với sự xung đột
giữa tin tưởng và hoài nghi đó chính là tác phẩm Hamlet. Chàng hoàng tử Hamlet đơn thân độc mã phải gánh lấy một trọng
trách nặng nề là phải tìm ra nguyên nhân cái chết của cha và sự tái giá vội
vàng của mẹ. Hamlet vô cùng đau khổ khi phải sống trong sự hoài nghi cô đơn trước
một xã hội bất thường đang bị che giấu. Cha chết, nỗi đau bất hạnh còn chưa hết
thì mẹ lấy chồng không một câu an ủi. Lấy ai? Lấy chú ruột của chàng: “Gót dày đưa tang chưa kịp mòn đã vội leo
lên giường cưới”.
Vở bi kịch Hamlet (1601) có nội dung triết học phong phú
và có ý nghĩa xã hội sâu sắc, đặt lên vai chàng hoàng tử Đan Mạch Hamlet trách
nhiệm xã hội to tát là diệt trừ tội ác, khôi phục chính nghĩa nhưng chàng luôn
rụt rè, nhu nhược trong hành động. Và phải giải quyết bằng một cuộc quyết đấu.
Đó chính là đặc trưng của người theo chủ nghĩa nhân văn thuộc giai cấp tư sản
đương thời. Sự kết hợp hài hoà giữa thực tế xã hội, chiều sâu triết học và nghệ
thuật hấp dẫn đã làm cho tác phẩm trở thành một trong những kiệt tác trong kho
tàng văn học thế giới.
Hamlet của Shakespeare ra đời, tác phẩm mở ra cả một thời đại phát
triển mới của bi kịch. Trước đó, Shakespeare chủ yếu viết hài kịch và kịch lịch
sử. Những vở kịch này đã vạch trần sự tàn bạo, thối nát của chế độ phong kiến lỗi
thời. Có điều, khi đấu tranh chống lại những tàn dư của chế độ phong kiến, cũng
như những nhà nhân văn chủ nghĩa khác, Shakespeare vẫn tin tưởng vào tương lai
tốt đẹp của xã hội.
Nhưng từ những năm 90 của thế kỉ XVI,
tình hình nước Anh bắt đầu thay đổi. Chính thể chuyên chế từng giữ vai trò quan
trọng trong cuộc đấu tranh chống lại tình trạng phong kiến cát cứ, ngày càng trở
nên thối nát, đốn mạt. Giai cấp thống trị bộc lộ bản chất phản nhân dân của nó.
Những tệ nạn thời trung cổ được hồi sinh dưới những hình thức còn khủng khiếp
hơn trước rất nhiều. Quan điểm xã hội và triết học của Shakespeare vì thế cũng
trở nên phức tạp. Ông nhận ra những mâu thuẫn của chế độ chuyên chế tư sản. Ông
muốn phân tích, khám phá bản chất của những mâu thuẫn ấy. Và sáng tác của
Shakespeare đã phản ánh một cách thiên tài toàn bộ sự lạc điệu của đời sống xã
hội đương thời.
Phần mở đầu bi kịch Hamlet chính là phần mở ra một tình thế lịch
sử. Ấn tượng đầu tiên mà nó mang lại khi ta xem vở kịch là sự lo âu, kinh
hoàng, là linh cảm về những biến động dữ dội rồi sẽ xảy ra. Việc hồn ma xuất hiện
đã làm nổi bật bầu không khí bao trùm đất nước Đan Mạch. Cả đất nước sống trong
lo âu, sợ hãi. Hoàn cảnh rất bất lợi. “Có
cái gì đang thối nát trong đất nước Đan Mạch này”. “Hồn ma hiện lên có ý gì,
tôi chẳng rõ, nhưng đại khái theo chỗ tôi hiểu thì đây là điều báo trước một
tai họa kinh hoàng cho đất nước ta” (lời Horalio).Quả là những gì đang xẩy
ra trong tác phẩm Hamlet có liên quan tới những vấn đề trọng đại mang tầm cỡ quốc
gia. Vua Đan Mạch Claudius và cả triều đình của y hiệp lực, du lại với nhau
thành một liên minh ma quái. Mình Hamlet phải đương đầu với cả khối liên minh
ma quái ấy. Hamlet thực sự trở thành kẻ đơn độc. Hoàn cảnh, không khí vây bủa
quanh Hamlet thù địch với Hamlet biết dường nào! Đã hơn bốn trăm
năm nay, nhân loại mải miết đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi: Hamlet là người thế
nào? Để giải đáp câu hỏi ấy, người ta thường bắt đầu bằng việc tìm lời giải đáp
cho một câu hỏi khác: Hamlet đã chống lại hoàn cảnh ra sao?Ai cũng biết là
Shakespeare không bịa ra cốt truyện cho vở bi kịch. Kịch bản của Shakespeare phỏng
theo một truyện dân gian Đan-Mạch. Tác phẩm dân gian này được một thầy tu là
Saxo Grammaticus sao chép lại từ ba thế kỷ trước (vào quãng năm 1200); đến năm
1572, nhà biên soạn Pháp tên là Louis de Belleforest dựa vào đó mà viết Câu chuyện bi thảm thứ năm trong tập truyện của ông. Có thể tóm tắt
nội dung như sau: Chú Amleth giết cha chàng rồi đoạt lấy ngôi vua. Amleth thông
minh và khôn ngoan đã giả vờ điên để đánh lừa chú và triều thần. Cuối cùng,
Amleth giết được chú và khôi phục ngai vàng. Đây là cốt truyện phản ánh chế độ
dã man xa xưa, hết sức phổ biến dưới thời trung cổ, được truyền bá trong dân
gian xứ Dớt-lan.
Do Shakespeare đã vay mượn cốt truyện có sẵn để viết
Hamlet, nên nhiều người từng cho rằng, tác phẩm của ông cũng chỉ xoay quanh chủ
đề trả thù. Ngày nay không ai hiểu một cách đơn giản như thế. Nhưng cũng không
thể phủ nhận, trả thù là một trong những đề tài hết sức quan trọng trong Hamlet của Shakespeare. Có đến ba nhân vật
được đặt trước nhiệm vụ trả thù. Thứ nhất là hoàng tử Na Uy, Fortinbras, chàng
phải trả thù cho cha, người đã bị Hamlet phụ vương giết chết. Fortinbras từ chối
nhiệm vụ này. Chàng khởi hành sang Ba Lan để chiếm một mảnh đất mà chẳng ai cần
đến. Thứ hai là Laertes. Khác với Fortinbras, Laertes đã làm tất cả để trả thù
cho cha. Hắn xông vào Hamlet lúc gặp chàng ngoài nghĩa địa. Hắn thách đấu với
Hamlet rồi tẩm thuốc độc vào kiếm với ý đồ phải giết cho bằng được kẻ thù của
mình. Cuối cùng là Hamlet. Hamlet đứng vào quãng giữa giữa hai nhân vật trên.
Hamlet thề với hồn ma sẽ trả thù, nhưng sau đó chàng luôn luôn trì hoãn công việc
này. Hamlet là
nhân vật lí trí, là con người trí tuệ. Đây là điều hết sức quan trọng.
Biến nhân vật trả thù thành nhân vật trí tuệ, Shakespeare đã sáng tạo ra một kiệt
tác có ý nghĩa xã hội vô cùng lớn lao.
Hamlet là sản phẩm của hoàn cảnh. Chính những điều kiện lịch
sử xã hội thời đại Phục hưng đã sinh ra tấn bi kịch Hamlet. Đó là thời
đại sụp đổ của những quan hệ gia trưởng, nhờ thế cá nhân và trí tuệ được giải
phóng. Nhưng đó cũng là thời đại bắt đầu hình thành chủ nghĩa tư bản, nhân loại
chuyển qua một kỉ nguyên thống trị của những thế lực mới, trong đó có không biết
bao nhiêu là sự đểu cáng, tráo trở. Điều kiện lịch sử cụ thể ấy đã làm nảy sinh
mâu thuẫn giữa tư tưởng và hành động, giữa sự hiểu biết thế giới sâu sắc với khả
năng tiến hành những hành động ngõ hầu có thể làm thay đổi trật tự hiện hành.
Tuy nhiên, chính trong hoàn
cảnh xã hội đầy rẫy những rối ren, phức tạp đó, Hamlet vẫn khẳng định được lý
tưởng của bản thân, lý tưởng anh hùng. Nhân vật Hamlet không chỉ quan tâm đến
nghĩa vụ trả thù và ngai vàng mà quan tâm hơn hết đến phẩm giá, lẽ sống và lối
sống con người.
Lý tưởng anh hùng được xem là lý tưởng thẩm mỹ của thời đại.
Coi thường sống chết, xông lên hàng đầu, chiến đấu vô cùng dũng cảm và lập được
những chiến công vô cùng hiển hách để lưu danh hậu thế, đó là khát vọng lý tưởng
của người anh hùng thời đại. Lý tưởng anh hùng như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt
toàn bộ tác phẩm, tạo nên khí thế hào hùng, không khí say sưa bay bổng, nuôi dưỡng
tâm hồn nhân vật, và nâng họ lên ngang hàng với thần thánh. Lý tưởng anh hùng
xuất hiện để đại diện cho một tập thể, một lãnh thổ, sẵn sàng đối mặt với những
sóng gió để lập nên những chiến cong lưu danh muôn thửa, để đưa bộ lạc của mình
đến một chân trời mới, đó chính là những đứa con ưu tú của bộ lạc.
Xuất phát từ sử thi và thần thoại xa xưa của Hi Lạp, lý
tưởng anh hùng đòi hỏi một con người hay một tập thể người phải gồng lên mức
cao nhất những sức lực thể chất và tinh thần, lòng dũng cảm, sự hi sinh để khắc
phục những mâu thuẫn gay gắt, không thể điều hòa, và để khắc phục chúng đôi khi
người anh hùng phải trằ bằng sinh mạng. Lý tưởng anh hùng thể hiện một lý tưởng
thẩm mĩ rất cao trước hết là thông qua hình tượng người anh hùng, những biểu hiện
anh hùng. Lý tưởng anh hùng mà bất kì người anh hùng nào cũng cần phải có đó
là: “Lý tưởng cuộc sống và giá trị cuộc sống
của cá nhân mình phải gắn liền với tập thể, cá nhân hi sinh vì cộng đồng. Những
người anh hùng luôn mang lý tưởng tập thể thị tộc, bộ lạc, người anh hùng tràn
đầy sức sống, nhiệt tình sôi nổi, khát khao hiểu biết và chinh phục thế giới.
Đó là con người của những chiến công và chiến thắng.”
Thời trung cổ, tư tưởng bị đàn áp, trí tuệ bị giam cầm đến
tê liệt trong các tín điều gia trưởng. Thời Phục hưng là thời đại giải phóng cá
nhân, thức tỉnh trí tuệ. Học giả người Nga A.V. Lunasarski (1875 – 1933) cho rằng,
một khi được giải phóng, trí tuệ có thể phát triển theo hai hướng: Ở hướng thứ
nhất, nó trở thành một võ khí sắc bén mà người ta vội vàng nắm lấy để giành giật
quyền lực và địa vị. Ở hướng thứ hai, trí tuệ giúp con người nhận ra cái tà nguỵ,
soi sáng những mâu thuẫn bi thảm của cuộc đời. Trong trường hợp này, trí tuệ là
nguyên nhân gây ra mọi dằn vặt đầy đau khổ của con người. Trong Hamlet của
Shakespeare có cả hai khuynh hướng ấy. Vua Claudius là nhân vật cùng kiểu với
nhân vật trong Ông Hoàng của Niccolò Machiavelli. Hắn khôn ngoan, sắc sảo và
trí tuệ của hắn được dùng vào mục đích duy nhất là giành quyền lực. Claudius
hành động điên cuồng. Đã nghĩ là hắn làm. Chẳng bao giờ có mâu thuẫn giữa tư tưởng
và hành động của hắn. Claudius giết anh. Hắn còn muốn giết cả Hamlet. Hắn phái
Hamlet sang Anh để mượn tay vua Anh giết Hamlet. Hắn rót thuốc độc vào cốc rượu
của Hamlet. Hành động của Claudius là hành động của một chính trị gia có mưu mẹo,
có thủ đoạn khôn ngoan.
Nhìn chung, Hamlet không hành động. Nói đúng hơn, Hamlet
không thực hiện kế hoạch hành động do mình vạch ra. Ý nghĩa sâu sắc của vở kịch
chính là ở đó. Cuộc đấu tranh của Hamlet chống lại nhà vua thực tế chỉ có thể
biến thành cuộc đấu tranh giành giật quyền lực cá nhân. Và để giành phần thắng
trong cuộc đấu tranh này, Hamlet buộc phải làm những điều bẩn thỉu giống như
chính bọn Claudius, Polonius đã làm. Cho nên, Hamlet không hành động. Đôi khi
Hamlet cũng hành động. Nhưng vừa bắt đầu hành động, Hamlet đã hiểu ngay rằng,
chàng đang tạo ra cái ác, chứ không làm được điều thiện. Hamlet biết, trong khi
theo đuổi mục đích, chàng đã coi thường tính mạng của Ophelia. Hamlet trò chuyện
với Ophelia thô bạo và lỗ mãng. Thực tế, Hamlet là nguyên nhân trực tiếp gây
nên cái chết của Ophelia. Ophelia phát điên trước hết là vì Hamlet, người nàng
yêu, đã giết cha nàng.
Cho nên, khi hành
động và trong hành động, Hamlet không “vĩ
đại”, chẳng “khổng lồ”, đúng
như lí luận của Aristotle đã chỉ rõ: về phẩm chất tinh thần, họ phải là trung
bình. Hamlet chỉ là người khổng lồ khi chàng nghĩ suy về đời sống, khi chàng vạch
trần tội ác của xã hội, vạch trần dưới danh nghĩa một anh hề, một thằng điên.
Khi ngoài đời rặt một sự bịp bợm, giả dối và đểu cáng thì chỉ những ai dám coi
thường mọi quan hệ xã hội, chỉ những thằng điên, anh hề mới có khả năng nói lên
sự thật. Vua Lear điên nói lên sự thật. Thằng hề của Lear cũng nói lên sự thật.
Donkihote vừa là anh hề, vừa là thằng điên nói lên sự thật. Hamlet giả điên, giả
hề cũng nói lên sự thật. Nhưng phía sau những câu điên dại, những trò hề của
Hamlet còn có cả một tấn bi kịch. Đó là bi kịch của lý trí, bi kịch của trí tuệ.
Hamlet nói về những cảnh tàn bạo đẫm máu, bất nghĩa bất
nhân đang lan tràn khắp nơi. Đâu đâu cũng có những án quyết bất thường, những vụ
giết chóc không ngờ, những cưỡng bức, lừa đảo… Những kẻ nắm quyền đang đè nén,
áp bức đồng loại không thương xót. Cõi thế qúa ư ô trọc. Chỉ có chết đi mới
không phải nhìn thấy những cảnh ô trọc ấy. Nhưng Hamlet không chết chẳng phải
vì Hamlet quyết sống để hành động như người ta vẫn thường phân tích. Chết đi ư
? Ngủ đi ư ? Phỏng có ích gì nếu như hồn ma vẫn tiếp tục hiện về! Hamlet sợ rằng,
ngay cả khi đã sang thế giới bên kia chàng vẫn phải suy nghĩ, tức là vẫn phải
tiếp tục khổ đau. Nỗi sợ ấy kéo Hamlet ở lại với cuộc đời, ngăn không cho chàng
tự vẫn. Hamlet nói: “Ta có thể bị giam
hãm trong chiếc vỏ hạt dẻ mà vẫn tự coi mình là ông vua của bầu trời bao la vô
tận, nếu nằm trong đó ta không bị những cơn ác mộng ám ảnh”. “Ác mộng” là gì, nếu
không phải là sự tiếp tục của suy nghĩ, của tư duy? Trí tuệ giúp Hamlet hiểu
thấu mọi mâu thuẫn và sự lạc điệu của cuộc đời, nhưng trí tuệ cũng dẫn Hamlet tới
những triết lý hết sức đắng cay, đau đớn.
Cho nên, Hamlet mạnh không phải vì dẫu sao Hamlet cũng đã
hành động và cuối cùng giết được Claudius. Đó chỉ là sức mạnh của Hamlet.
Hamlet mạnh ở chỗ, chàng đã thấy được, hiểu được những mâu thuẫn của thực tại
và chàng đau khổ vì sự lạc điệu của đời sống. Đó là một trí tuệ thức tỉnh quá sớm,
một trí tuệ quằn quại trong đớn đau giữa một thực tại thù địch với nó: thực tại
ảm đạm của thời tư bản sơ khai.
Tuy nhiên,
dù lý tưởng của chàng có tốt đẹp đến đâu, nhưng khi đứng trong một thực tế xã hội xấu xa như vậy,
buộc chàng phải đánh giá lại tất cả và tìm cho mình một thái độ cư xử phải đạo. Một hiện thực mà con người
sống vô đạo, vô cảm...
Hamlet là nhân vật bi kịch thể hiện sự tan vỡ
lí tưởng nhân văn của Shakespeare. Nhưng Shakespeare không mất niềm tin vào
tương lai. Cho nên, Hamlet không phải là nhân vật phát ngôn cho toàn bộ tư tưởng
của Shakespeare. Hamlet không nhận ra con đường, ngõ hầu thoát khỏi tình trạng
bế tắc, tuyệt vọng. Shakespeare tìm thấy trong quan niệm nhân sinh của nhân dân
niềm tin yêu cuộc sống. Ta hiểu vì sao, Shakespeare không chỉ đối lập “người khóc than cho số phận toàn nhân
loại” với những thằng ngốc của sân khấu hài đời, mà còn đối lập Hamlet với
nhân dân. Hãy nhớ lại lớp kịch nói về cảnh ngoài nghĩa địa. Cảnh này gồm hai
người đào huyệt và Hamlet, nhà tư tưởng, nhà triết lí. Shakespeare gọi những
người đào huyệt là những “chàng ngố”,
là “anh nhà quê”. Thế là trong cảnh
này, một bên có Hamlet, đại diện cho trí tuệ, còn bên kia là những “chàng ngốc”. Những “chàng ngốc” té ra lại khôn ngoan, thông minh hơn Hamlet, nhà tư tưởng.
Hamlet cho rằng, những gì đang sống rồi sẽ biến thành cát bụi. Bằng toàn bộ sự
sắc sảo của trí tuệ, Hamlet chứng minh, tương lai chỉ là hư vô. Sự huỷ diệt
đang chờ đợi tất cả phía trước.
Thái độ của những người đào huyệt đối với cái chết đơn giản
hơn nhiều. Họ nói chuyện với Hamlet hết sức bỗ bã, suồng sã và cũng không kém vẻ
uyên thâm. Họ gọi hoàng tử Hamlet là thằng điên. Họ cho rằng Ophelia tự tử mà vẫn
được chôn cất theo lễ nghi tôn giáo chẳng qua vì nàng thuộc dòng dõi quý tộc. Họ
đánh giá giai cấp này theo quan điểm của nhân dân. Họ là những người chẳng có
chữ nghĩa, không được học hành. Xã hội vẫn nhìn họ như những thằng ngốc. Nhưng
giống như trong sáng tác dân gian, những thằng ngốc té ra lại là những nhà
thông thái, thông thái một cách độc đáo theo kiểu của nhân dân.
Đối lập tư tưởng của Hamlet với tư tưởng của nhân dân,
Shakespeare chỉ ra sự phiến diện trong quan điểm của “Người khóc than cho số phận toàn nhân loại”. Shakespeare còn đối lập
Hamlet với Fortinbras để vạch ra sai lầm trong thái độ lảng tránh hành động của
vị hoàng tử này. Tại sao Fortinbras lại xuất hiện ở phần chót vở kịch? Nhân vật
này không xuất hiện thì xung đột giữa Hamlet và Claudius cũng đã được giải quyết
xong xuôi và hành động kịch thế là đã hoàn tất. Rõ ràng, Shakespeare cần đưa ra
một đối cực của Hamlet. Hamlet là nhà tư tưởng bị trí tuệ làm tê liệt hành động.
Fortinbras (nghĩa đen là “cánh tay mạnh”) là một chiến binh, một võ tướng.
Chàng là người hành động không cần bàn luận. Sự xuất hiện của Fortinbras phá
tan bầu không khí vô vọng đang bao trùm toàn bộ sân khấu ở màn chót vở kịch.
Qua nhân vật này người xem hiểu ra, rằng thái độ hoài nghi vào tương lai, thái
độ lảng tránh hành động của Hamlet chứa đựng một cái gì đó hết sức sai lầm. Đưa
Fortinbras lên sân khấu ở màn chót vở kịch, Shakespeare nói to lên một điều hết
sức hệ trọng: lịch sử vẫn cứ tiếp diễn, vẫn đi theo con đường của nó.
Tuy nhiên, đứng trước hiện thực đó, vì sao Hamlet lại có
thái độ hoài nghi vào tương lai, thái độ lảng tránh hành động như vậy? Phải
chăng sau đó còn có nguyên nhân nào khác? Tại
sao Hamlet không chọn cho mình cách cư xử là trả thù? Xem ra, muốn giải đáp
câu hỏi ấy, phải tìm hiểu bản chất trí tuệ và quan niệm của Hamlet về cuộc đời,
chứ không thể loanh quanh với chuyện Hamlet có, hay không có khả năng hành động.
Là hoàng tử, dĩ nhiên Hamlet thuộc về đẳng cấp cao nhất của xã hội quý tộc.
Nhưng nhờ được giáo dục, dạy giỗ trong trường đại học, Hamlet còn là gương mặt
tiêu biểu cho lớp người tiên tiến của thời đại Phục hưng, đầu óc thấm đẫm những
tư tưởng nhân văn. Hamlet chia xẻ niềm vui với nhân loại vừa thoát khỏi ngục tù
của chế độ trung cổ. Trước mắt Hamlet là cả một viễn cảnh huy hoàng, con người
trở thành trung tâm của vũ trụ, ngày càng hoàn thiện, rạng rỡ. Hamlet nhìn đời
bằng đôi mắt tràn trề tinh thần lạc quan. Vậy mà, trở về Đan Mạch, Hamlet phải
chạm trán ngay với một thực tại qúa phũ phàng. Đâu đâu cũng có cảnh rượu chè,
thô bỉ. Cuộc đời quá ư ô trọc. Hamlet vô cùng kinh hoàng trước sự dối trá, thói
giả nhân giả nghĩa nghiễm nhiên ngự trị khắp chốn cung đình. Cái gì cũng khiến
Hamlet phải thất vọng. Hamlet thất vọng vì thấy cuộc hôn nhân quá vội vàng của
mẹ. Rồi những kẻ từng là bạn của Hamlet từ thuở ấu thơ nay thành lũ tay sai
chuyên rình mò nghe lỏm. Nhìn thấy Claudius và Polonius đứng sau lưng Ophelia,
Hamlet quả quyết, cả Ophelia cũng đang âm mưu chống lại chàng.
Không phải Hamlet chỉ giả vờ điên. Tâm hồn Hamlet đã bị
chấn động dữ dội. Cái vẻ ngoài điên dại của Hamlet rất hợp với nội tâm đang bị
chấn động dữ dội của nhân vật. Trong bi kịch của Shakespeare có rất nhiều nhân
vật điên. Lear điên. Macbet điên. Ophelia điên. Nhân loại phải trải qua những
biến động dữ dội quá! Trước mắt những con người vừa thoát khỏi tình trạng tù
túng, trì trệ của thời trung cổ là cả cái bể khôn cùng của những tội ác, lừa đảo,
bội bạc. Trí tuệ của họ không chịu đựng nổi. Nhiều người hoá điên là vì thế.
Tại sao Hamlet trì hoãn việc trả thù?
Thế kỷ XVII xem bi kịch Hamlet là bi kịch chính trị. Phê bình lãng mạn thế kỷ
XVIII cho rằng, Hamlet trì hoãn trả thù vì con người này có tâm hồn yếu đuối. Đặt
nhiệm vụ trả thù lên vai Hamlet chẳng khác gì đem cây đại thụ trồng vào chậu cảnh,
rốt cuộc chậu vỡ, cây chết. Bielinski và phê bình Nga, phê bình Đức thế kỷ XIX
lại khẳng định, Hamlet là một hiệp sĩ, đại diện của đẳng cấp cao nhất thời
trung cổ. Chàng có cả một bầu máu nóng sục sôi hành động và một cánh tay mạnh đủ
sức san phẳng mọi bất bình. Cho nên, Hamlet trì hoãn trả thù không phải vì bản
chất yếu đuối. Mỗi lần Hamlet trì hoãn đều có một lí do chính đáng. Chẳng hạn,
nghe xong lời của hồn ma, Hamlet liền bắt tay hành động. Việc làm đầu tiên của
Hamlet là buộc sĩ quan và binh lính có mặt ở đó phải tuyên thệ. Rồi Hamlet quyết
định giả điên. Chàng làm như thế không phải là không có sự tính toán. Hamlet
nghĩ cách trả thù. Muốn thế, Hamlet phải làm sao để kẻ thù không xem chàng là kẻ
đáng sợ. Giả điên là cách tốt nhất để tránh sự nghi ngờ. Với kẻ điên, người ta
chỉ có thể thương hại hoặc chẳng xem ra gì. Hamlet còn bịa ra một màn kịch diễn
cho vua xem. Chàng phải kiểm tra lại những điều hồn ma báo cho biết. Hamlet quả
là người biết lập luận chặt chẽ và tính toán kĩ lưỡng trước mọi công việc.
Hamlet muốn khám phá mối quan hệ đích thực giữa mình và hồn ma. Trong quan niệm
của Hamlet, trả thù không đơn giản là chém giết, lấy máu đền máu. Biết chắc vua
mới là kẻ có tội, Hamlet không giết hắn, vì thấy hắn đang cầu kinh. Giết một
người đang cầu kinh cũng có nghĩa là đưa hắn lên thiên đường. Thế mà Hamlet lại
nhất quyết buộc kẻ phản bội phải xuống địa ngục! Nghị lực và khả năng hành động
của Hamlet thể hiện rõ nhất trong chuyến qua Anh quốc. Người ta đưa Hamlet qua
Anh để mượn tay vua Anh giết Hamlet. Hamlet đánh tráo thư, biến Rosencranlz và
Guildenstern thành những kẻ thế mạng. Hamlet chuyển qua tàu khác rồi trở về Đan
Mạch. Hamlet không chỉ có sức mạnh, có nghị lực và khả năng hành động. Chàng có
cả khả năng hành động một cách khôn khéo, thậm chí “tráo trở”. Nghĩa là chân lý
hoàn toàn thuộc về những ai khẳng định bản chất mạnh mẽ và khả năng hành động của
Hamlet.
Nhân vật Hamlet hiện lên trong vở kịch được coi là một đại
dịên cho bên chính, còn một bên là Clôđiut với những tên tay chân của hắn. Bên
cạnh Hamlet chỉ còn mỗi Hôraxiô (một người bạn thân của Hamlet), có nghĩa là
chàng không có nhiều cánh tay trợ giúp. Chỉ mình chàng đương đầu với tất cả.
Chàng như mãnh sư đơn độc bị ném ra giữa bầy sói đói, thèm khát tiền tài và quyền
lực. Chàng phải dũng cảm đương đầu với tất cả, đó chính là con đường mà Hamlet
đã chọn. Khi phụ thân qua đời, Hamlet chỉ còn lại một mình và trước mắt chàng
là Clôđiut, kẻ đã mang tội giết anh để đoạt ngôi báu rồi cướp luôn vợ của anh
mình và một tên tay chân của hắn là Plôniut - một quan đại thần trong triều.
Như vậy ta thấy đây là một cuộc so tài không cân sức, và giờ đây Hamlet chỉ biết
tin vào niềm tin của công lí, tin vào chính bản thân mình. Chàng biết việc mình
đang làm, biết đựơc những gì sắp sửa diễn ra trên đất nước Đan Mạch nhỏ bé này.
Một cuộc chiến sớm muộn cũng sẽ xẩy ra vì chàng không thể cho phép bản thân
mình để cho tên phản bội kia nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật được. Shakespear đã
để cho Hamlet thực sự biểu lộ thái độ căm phẫn của mình từ cách ăn nói đến hành
động cử chỉ, thái độ của chàng đối với những người xung quanh mà đặc biệt là đối
với Clôđiut, Plôniut và ngay cả mẹ chàng lúc này là vợ của Clôđiut. Hamlet đã
chiến đấu, một cuộc chiến đấu thầm lặng nhưng lại rất mãnh liệt, rất hào hùng,
gay go và không kém phần ác liệt bởi những thế lực mà chàng phải đương đầu là
những thế lực hung bạo, chúng giám làm tất cả, cho nên muốn thực hiện được kế
hoạch của mình một cách trọn vẹn và thu được thắng lợi thì Hamlet cần phải có một
sức khoẻ, một lòng dũng cảm, nhưng điều quan trọng nhất ở đây đó là có một niềm
tin vào cuộc đời tin vào những gì mà mình đang làm, trí tuệ mách bảo cho chàng
những điều mà chàng làm là hoàn toàn đúng. Nhận thấy được thế lực hùng hậu của
Clôđiut, Hamlet nghĩ mình không thể công khai chồng đối mà chàng phải biết vận
dụng trí thông minh của mình thì mới có thể dành được thắng lợi. Để tránh khỏi
sự truy xét của Clôđiut và những tên tay chân của hắn và để tránh những sự bất
lợi cho mình Hamlet đã giả vờ điên. Đây có thể xem là một kế hoạch, một kế hoạch
mang tính chiến thuật cao. Nhờ vào việc giả vờ điên của mình mà Hamlet đã nhận
rõ hơn bộ mặt thật của Clôđiut, dùng những từ ngữ cay độc nhất để mắng nhiếc chế
độ của tên Clôđiut.
Shakespeare đã để cho nhân vật Hamlet trổ hết mọi tài
năng của mình, ông tin ở Hamlet, tin ở nhân vật của mình. Ở Hamlet, Shakespeare đã gửi gắm một ước mơ của thời đại, ước mơ về một
xã hội thái bình, một xã hội mà trong đó không có những con người gian ác
như Clôđiut, không có những người mẹ, người vợ như Giectơrut. Xã hội hội này cần
phải có những con người như Hamlet, con người như vậy thì mới có thể cải tạo được
thế giới, đưa lại sự bình yên cho nhân dân. Một người biết mình biết người như
hoàng tử Hamlet, xứng đáng là một người kế vị ngai vàng mà trước đây phụ thân
chàng đã từng làm cho nên Shakespeare đã có công lớn khi đưa nhân vật Hamlet là
một người hùng có công tiêu diệt kẻ gian ác nhưng đồng thời tiêu diệt thì phải
đi đôi với sáng tạo. Hamlet nhận ra đất nước Đan Mạch là một nhà tù. “Chính nước Đan Mạch này là một ngục thất”;
“Một ngục thất rất tốt, trong đó có bao nhiêu là gông cùm, hầm giam và ngục tối;
mà Đan Mạch là cái ngục thất đáng ghê tởm nhất”. Và cũng từ việc nhận thấy
được cái bản chất của xã hội mà mình đang sống nên Hamlet có trách nhiệm giải
thoát cho cái xã hội ấy, giải thoát cho những người sống trong xã hội ấy. Đó
chính là điều mà Hamlet nhận ra và cũng chính là điều mà chàng cần phải xây dựng.
Tiêu diệt Clôđiut đồng nghĩa với việc thiết lập lại trật tự của một đất nước,
trật tự của một thời đại.
Trong việc tạo dựng và dẫn dắt hành động kịch của mình, Shakespeare
không những tạo dựng nhân vật Hamlet là người dũng mãnh mà còn thể hiện một con
người hiếu đạo, một tình yêu thuỷ chung. Hamlet của Shakespeare biết thể hiện
mình là một con người dũng mãnh, cái dũng mãnh đó không chỉ thể hiện ở việc tìm
ra kẻ thù và báo thù cho cha mà còn là một người có nhiệm vụ thiết lập lại trật
tự cho xã hội, đồng thời thể hiện được mình là một con người thông minh, sự
thông minh đó đã giúp Hamlet nhận biết được đâu là bạn, đâu là thù, nó còn cho
chàng nhận thấy được đường đi của lẽ phải, giúp Hamlet tìm ra được chân lí của
cuộc đời. Bên cạnh đó Hamlet còn thể hiện mình là một người con có đạo hiếu. Đạo
làm con của Hamlet được thể hiện ở lòng tôn kính đối với người cha và một tấm
lòng bao dung độ lượng đối với người mẹ đã lầm đường lạc lối. Đây là một chi tiết
góp phần tạo nên hình tượng con người lí tưởng của thời Phục hưng ở trong nhân
vật Hamlet.
Shakespeare đã để cho những chấn động trong tâm hồn
Hamlet diễn ra trùng khớp với bước ngoặt lớn trong cuộc đời một con người. Đó
là bước ngoặt chia đôi thời niên thiếu và tuổi trưởng thành. Vĩnh biệt thời ấu
thơ bằng lặng, đang thấy đời toàn một màu hồng, bước sang tuổi trưởng thành,
Hamlet bỗng nhận ra một thế giới đầy tà nguỵ, ma quái. Những điều mới được phát
hiện lập tức trở thành quan niệm bất di bất dịch của Hamlet về con người, hoá
thành thứ chủ nghĩa hoài nghi cực đoan nhất. Hamlet không đứng trên hay đứng
ngoài đám đông. Hamlet cũng không có ý lấy cá nhân mình làm trung tâm để đối lập
với đám đông ấy. Hamlet không chỉ ngờ vực người khác, mà còn hoài nghi chính bản
thân mình. Hamlet thú nhận, mình là người hay kiêu ngạo, tự mãn. Chàng vừa thất
vọng về người đời, vừa thất vọng về bản thân. Hamlet nghi ngờ cả người đang sống,
lẫn những kẻ chưa kịp đầu thai làm kiếp người. Hamlet khuyên Ophelia đi tu chứ
đừng lấy chồng để khỏi sinh ra những đứa con tội lỗi. Hamlet không chỉ suy ngẫm
về tội ác của vua mới. Hamlet nghĩ tới những vấn đề còn hệ trọng hơn nhiều. Có
một cái gì đó đang chuyển dịch. Trật tự, kỉ cương cũ đã hoàn toàn đổi thay. Cái
ác thắng thế và hoành hành khắp mọi nơi. Hamlet nhận ra “cuộc đời khốn kiếp”, “thời đại đảo điên tan tác”, “thế giới là một nhà
tù, mà Đan Mạch là nhà tù ghê tởm nhất”, và “Ôi, ác nghiệt thay, tôi lại sinh ra để chữa khớp xương cho thời đại”.
Khi nói như vậy, Hamlet không nghĩ tới quyền kế vị ngai
vàng đã bị cướp mất, mà nghĩ tới những vấn đề còn lớn lao hơn nhiều. Trước
Hamlet không chỉ có một Claudius mà là cả một thế giới đảo điên. Sự đểu cáng,
tráo trở của Claudius không phải là ngoại lệ. Bên cạnh hắn còn có một Polonius
bợ đỡ, nịnh hót, một Osric tầm thường, giả dối và một lũ một lĩ những
Rosencranlz, Guildenstern chuyên rình mò lo lỏm. Cả bọn họp thành một thế giới
ô trọc vây quanh Hamlet. Hamlet hiểu rõ đến chân tơ kẽ tóc cái thế giới đang
vây bủa quanh mình. Trí tuệ của Hamlet thấm rất sâu vào thế giới ấy. Sau khi
phân tích kĩ thực tại, Hamlet rút ra những kết luận hoàn toàn vô vọng. Hamlet
cho rằng, dù có giết vua mới, trả thù thật đích đáng với tội ác của y thì cũng
không giải quyết được vấn đề gì.Hamlet là con người trí tuệ, một trí tuệ luôn
luôn phân tích và suy nghĩ. Chính hoạt động phân tích và suy nghĩ làm tê liệt ý
chí của Hamlet. Hamlet cũng thú nhận như thế: “Thế là những suy nghĩ đã biến chúng ta thành những thằng nhát như
cáy”. Cho nên, qua Hamlet, Shakespeare muốn giải quyết đề tài trí tuệ,
chứ không định viết “một bài thơ tán
dương sự đấu tranh”, như nhiều người đã lầm tưởng.
Tư tưởng nhân văn là tư tưởng cơ bản
của thời Phục Hưng, là yếu tố then chốt tạo ra các giá trị cho các tác phẩm văn
học nghệ thuật thời kì này. Chủ nghĩa nhân văn là sản phẩm của một thời kì lịch
sử - cụ thể, thời kì Phục Hưng, thời kì khổng lồ, thời kì bước ngoặt. Nó là sự
kết tinh cao nhất tinh thần thời đại. Trong bài viết chủ nghĩa nhân văn và chủ
nghĩa xã hội của nhà nghiên cứu V.P.Vôn – ghin thuộc Liên Xô cũ đưa ra nhận định:
“Chủ nghĩa nhân văn là toàn bộ những quan
điểm đạo đức và chính trị bắt nguồn không phải từ cái gì siêu nhiên, kì ảo, từ
những nguyên lý ngoài đời sống của nhân loại mà từ đời sống của con người tồn tại
trên mặt đất với những nhu cầu, những khả năng trần thế và hiện thực của nó và
những nhu cầu, những khả năng ấy đòi hỏi phải phát triển đầy đủ, phải được thỏa
mãn.” Với niềm tin mãnh liệt nhưng ngây thơ, đầy tính lý tưởng và mộng mơ,
các nhà nhân văn chủ nghĩa hi vọng sẽ tạo ra được một xã hội mới. Nhưng họ quên
rằng khi phế bỏ quyền sở hữu phong kiến thì giai cấp mới đó là giai cấp tư sản
cũng sẽ xác lập quyền sở hữu của nó một cách “trắng trợn hơn, công nhiên hơn và vô liêm sỉ hơn”. Do vậy, sang thế
kỉ thứ XVI khi giai cấp tư sản đã có một vài chỗ đứng chân, đặc biệt khi đồng
tiền tư sản đã bắt đầu bộc lộ sức mạnh và bản chất của nó thì chủ nghĩa nhân
văn lâm vào tình trạng khủng hoảng. Đứng trước thời thế “đảo lộn tiến bộ” trên, Shakespear viết kịch nhằm để diễn, để “chìa ra một tấm gương tự nhiên nhằm làm cho
đạo đức thất hình ảnh của nó, thói vô đạo đức tự biết khinh bỉ và mỗi thế kỉ, cả
thời đại có thể nhân ra tính cách bộ mặt của nó”.
Trong
quyển “Văn học Phương Tây” có trích dẫn
lời của Lecmontop: “Nếu Shapespeare vĩ đại
thì đó là ở Hamlet”. Qủa thật lời nhận xét đấy không ngoa, Hamlet đã trở
nên bất tử, sức sống của nhân vật đã vượt không gian, thời gian, và tồn tại vững
chắc cho đến ngày nay. Hamlet là biểu tượng cho sức mạnh công lý, đại diện cho
chủ nghĩa nghĩa nhân văn thời Phục Hưng, thể hiện “tinh thần chống chủ nghĩa ngu dân, chủ nghĩa giáo điều kinh viện Trung
cổ nhằm giải phóng cho trí tuệ con người, tinh thần khẳng định cuộc đời trần thế
sự đòi hỏi quyền tự do cho cá nhân con người”.
Hamlet là nhân vật có tính cách khá phức tạp, cùng một
con người nhưng tồn tại nhiều trạng thái khác nhau, cũng trong quyển Lịch sử sân
khấu thế giới đã trích dẫn lời nhận xét của Bêlinxki: “Sự phát hiện ra điều bí mật, điều khủng khiếp. Đáng lẽ làm cho Hamlet
chìm đắm trong một tình cảm, một suy nghĩ đó là sự trả thù, từng giây từng
phút, sẵn sàng biến thành hành động, nhưng sự phát hiện khủng khiếp đó buộc anh
không phải đi ra bản thân mình, mà lại đi vào chính bản thân mình và tập trung
vào nội tâm của chính mình, đánh dậy ở trong đó những vấn đề về sự sống và cái
chết, về thời gian và vĩnh cửu, về nghĩa vụ và ý chí yếu mềm, khiến anh ta lưu
ý đến phẩm chất cá nhân mình.” Shekespea đã thổi vào Hamlet tinh thần của
người anh hùng thời đại. Người anh hùng mang nhiệm vụ to tát “sống là phải hành động, hành động để tái tạo
thế giới”.
Việc tìm hiểu bi kịch của Hamlet càng làm rõ thêm những
lý luận của Aristotle về bi kich trong sáng tác của Shakespear. Quan điểm của
Aristotle đã chỉ rõ rằng: “Bi kịch không
phải là sự mô phỏng con người, mà là sự mô phỏng hành động và cuộc sống, niềm hạnh
phúc và điều bất hạnh, mà hạnh phúc hay bất hạnh đều nằm trong hành động; và mục
đích của bi kịch là miêu tả một hành động nào đó chứ không phải là miêu tả phẩm
chất của con người” [trang 18, chương VI, nghệ thuật thi ca Aristotle]. Trong
Hamlet cũng vậy, khi chàng nhận ra được nguyên nhân cái chết của cha, tội ác của
Clodius, hiện thực tối tăm, rối ren của xã hội, chàng hoài nghi nó, và chàng đã
có những hành động, được thể hiện và sắp xếp một cách hợp lý, để thể hiện lý tưởng,
để mong muốn thay đổi hiện thực về một xã hội tốt đẹp hơn, lý tưởng hơn. Và
trong Hamlet, bi kịch đã thể hiện rõ
khi mô phỏng chân thực những hành động và cuộc sống của Hamlet, và cũng qua đó,
phẩm chất, tâm hồn, con người Hamlet cũng đã hiện lên rất rõ.
2.1.3.
Bi
kịch từ chính tính cách nhân vật
a. Bi kịch của một con người trí tuệ
Từ hơn ba thế kỉ nay,
vở kịch Hamlet không ngừng làm xúc động quần chúng nước Anh cũng như khắp các
nước khác trên thế giới. Vượt qua thử thách của thời gian và không gian, Hamlet
đã lôi cuốn, hấp dẫn hàng nghìn hàng triệu người, gây được những cảm xúc mạnh mẽ
trong tâm tư, tình cảm của khắp đọc giả. Tại sao Hamlet lại làm được điều đó?
Điều gì đã neo giữ vở kịch Hamlet của Shakespeare tồn tại trong lòng người đọc
suốt khoảng thời gian lâu như thế? Chỉ có thể nói chính là nhờ tài năng sáng tạo
đầy nghệ thuật của Shakespeare và những thông điệp, những giá trị tư tưởng mà vở
kịch mang tới cho nhân loại. Một trong những nhân tố góp phần làm nên thành
công của vở kịch, phải kể đến đó là nhân vật Hamlet_ngôi sao sáng của tác phẩm,
mỗi con người trong thời đại tư bản chủ nghĩa hay đã từng sống trong xã hội tư
sản đều có thể nhìn thấy có mình ở trong Hamlet, đều có thể cảm thông với người
trong kịch, cùng ngậm ngùi hay cùng căm giận với người trong kịch. Và Hamlet là một kiểu người như thế_con người
mang trong mình những mâu thuẫn, những bi kịch ở chính thời đại, chính tư tưởng
của bản thân. Rõ nét nhât, Hamlet là nhân vật bi kịch, bi kịch ngay trong chính
tính cách của mình. Chàng là một con người trí tuệ và cũng chính vì thế nên
Hamlet luôn hoài nghi mọi thứ tồn tại xung quanh mình. Vâng, Hamlet là một
chàng thanh niên của thời đại mới. Một
con người kế thừa trong mình những tinh hoa của thời đại Phục hưng: “Bẩm chất
thông minh, tư tưởng tự do, tâm hồn cao quý, tấm lòng nhạy cảm..”. Chính trí tuệ
thông minh, tinh nhạy buộc chàng luôn luôn phải suy nghĩ, giằn vặt, đi tìm lời
giải cho các vấn đề mà chính chàng đặt ra. Đó là những mờ ám trong cái chết của
cha, là vấn đề tồn tại của con người, là những hiện thực đảo điên, một xã hội
Đan Mạch đầy tăm tối, hỗn loạn đang xảy ra trước mắt chàng.
Thật vậy, một viễn cảnh
tăm tối đã bao trùm lên toàn bộ xứ sở Đan Mạch từ khi người cha đáng kính của
chàng lìa xa cuộc sống. Mọi thứ như trở nên đầy ám ảnh và tang tóc hơn khi chưa
được bao lâu thì mẹ của chàng lại tái giá với người chú ruột của chàng. Nỗi oán hận và hoài nghi về tình yêu của mẹ
chàng dành cho người cha thân yêu ngày càng tăng thêm. Trí tuệ của chàng vẫn
luôn thôi thúc Hamlet tìm ra nguyên nhân của mọi chuyện, khi lí trí càng lên tiếng
kêu la thì trái tim Hamlet càng thổn thức, đau đớn “Thôi…ta đừng nghĩ đến nữa! Nhẹ dạ, đích danh mi là đàn bà! …Như vậy chẳng
tốt đâu, trước sau chẳng thể nào tốt được! Nhưng tim ta ơi! Hãy nổ tung ra đi,
vì ta bắt buộc cứ phải chịu câm miệng” Một trí tuệ thông minh đủ để chàng
sáng suốt nhận ra vấn đề, một tâm hồn nhạy cảm có khả năng phản ứng tinh nhạy
trước hiện thực. Chính điều đó khiến chàng luôn sống trong tâm trạng hoài nghi,
bi quan chán nản. Và cũng luôn buộc Hamlet phải căng hết trí não để tỉnh táo đặt
lại mọi vấn đề của cuộc sống. Tình yêu, tình bạn, cha con, vợ chồng.
"
Nhẹ dạ, đích danh mi là đàn bà !
Hamlet nói với Ophelia: ‘‘Dù cô em có tinh khiết như băng, trong trắng như
tuyết cũng không tránh khỏi miệng tiếng của người đời“. Câu nói ấy đã nêu lên cách nhìn con người, nhìn cuộc đời của Hamlet bởi
không chỉ hoài nghi, bi quan mà ở Hamlet còn là nỗi đau khổ của con người nhận
thức rõ vị trí của mình:“Ôi, ác nghiệt thay, tôi lại sinh ra để chữa khớp
xương của thời đại. Đau khổ đấy nhưng Hamlet còn là người chiến sỹ của thời đại.
Con người như chính lời ca ngợi: “Hãy khiêng Hamlet như một người chiến sỹ"
. Đúng thế, người chiến sĩ Hamlet ấy luôn luôn hành động với lý trí và trí tuệ
sáng suốt của thời kỳ Phục hưng. Ngay
trong hành động trả thù của nhân vật, Hamlet cũng thể hiện điều đó. Mục đích của
Hamlet là trả thù nhưng tận cùng đó là thiết lập lại công lý chính nghĩa, xây dựng
lại thời đại của mình “cho ngay ngắn vững vàng. Chính vì thế trong quá
trình hành động chàng đã rất dụng công để thực hiện hành vi đó. Nhưng cũng
chính vì sự dụng công ấy lại mang đến cho Hamlet những bi kịch của chính mình:
chàng giả điên lợi dụng tình yêu ngây thơ của Ophelia, giết nhầm Poloniut_cha
nàng để rồi gây nên mối oán thù sâu nặng. Tất cả chỉ để phục vụ cho mục đích
cao cả cuối cùng là trả thù cho người cha kính yêu của mình. Nhưng, khi đối diện
với kẻ thù và với cơ hội trả thù đầy thuận lợi thì chàng lại suy tư và trì
hoãn. Sự suy tư và trì hoãn ấy đã khiến không ít người cho rằng Hamlet là người
có tâm hồn yếu đuối. Đặt nhiệm vụ trả thù lên vai Hamlet chẳng khác nào đem cây
đại thụ trồng lên chậu cảnh. Rốt cuộc chậu vỡ, cây chết. Mặt khác, nhà phê bình Nga Bielinxki và một số học giả
Đức thế kỷ XIX lại cho rằng: Hamlet
là một hiệp sĩ, đại diện cho đẳng cấp cao nhất của thời Trung cổ. Chàng có cả một
bầu máu nóng sôi sục hành động và một cánh tay mạnh đủ để san phẳng mọi bất
bình. Cho nên Hamlet trì hoãn hành động trả thù không phải vì bản chất yếu đuối.
Mỗi lần Hamlet trì hoãn đều có một lí do chính đáng. Nghe xong lời kêu oan
của hồn ma Hamlet liền bắt tay vào hành động. Việc làm đầu tiên chàng buộc sĩ
quan và binh lính có mặt ở đó phải tuyên thệ. Để che mắt kẻ thù chàng phải giả điên. Đây là một sự
tính toán rất tinh tế sắc sảo. Hamlet còn bịa ra một màn kịch diễn cho vua xem.
Chàng phải kiểm tra lại những điều hồn ma báo cho biết.
Những hành động ấy thể hiện một đầu óc
tư duy linh hoạt và một người biết lập luận chặt chẽ có tính toán kỹ lưỡng trước
mọi hành động. Đối với Hamlet trả thù không có nghĩa là chém giết, lấy máu
trả nợ máu. Dù trong một tình thế vô cùng thuận lợi: một mình đối diện với vua
trong nỗi uất hận tột cùng nhưng chàng không hạ thủ. Trong những tính toán suy
nghĩ của mình, Hamlet không để tư duy trôi theo một chiều mà luôn đào sâu vào mọi
vấn đề. Vì thế Hegel đã khéo léo giải thích hành động ấy “kể ra Hamlet có băn khoăn do dự đấy, song điều chàng ngờ vực
không phải ở chỗ chàng chàng phải làm gì mà ở chỗ chàng phải làm như thế nào” (Mĩ học). Chính những băn khoăn do dự khiến
chàng trì hoãn việc trả thù, chính chàng cũng phải thú nhận rằng: “Thế là những
suy nghĩ biến chúng ta thành những thằng nhát như cáy”. Cũng có khi Hamlet tự
phê phán mình một cách gay gắt “Phải
chăng ta lãng quên đi như một súc vật hay chính là lo ngại hèn nhát cứ
quẩn quanh suy hơn xét thiệt, tính toán chi li đến kết quả việc làm. Ý nghĩ ấy
chia tư được một phần khôn ngoan còn ba phần hèn nhát". Chính Hamlet cũng
thừa nhận điều đó với Ophelia “Tôi là một kẻ kiêu căng hay oán thù, đầy tham vọng,
đầu óc chứa chất nhiều tội lỗi đến nỗi tôi không đủ ý để diễn đạt, trí tưởng tượng
để hình dung, thời gian để hành xử”
Thế nên, khi bàn về tác phẩm, một
số nhà nghiên cứu thay vì khẳng định nhân vật Hamlet là nhân vật trong những
hành động trả thù đã khẳng định: “Hamlet
là nhân vật lí trí, là con người trí tụê”. Có lẽ chính vì thế có người đã cho rằng
“Hamlet thiên về suy nghĩ hơn là hành động.” Chính trong những suy tư,
chiêm nghiệm của một đầu óc nhạy cảm dẫn chàng tới những khám phá về hiện thực.
Tuy nhiên, cũng chính vì có trí tuệ,
chàng đủ khả năng tìm ra chân lý, nhận thức được thực tại và thấy rõ được khả
năng của chính bản thân mình. Điều
đó càng khiến chàng đau khổ. Như một ai đó đã từng nói rằng: trí tuệ càng sâu sắc
thì sự bất an càng ám ảnh. Điều này thật đúng với Hamlet. “Chàng cảm thấy
khổ đau cuả con người là vô hạn trong khi khả năng tiêu diệt nó lại quá ít ỏi”.
Bởi thế, chàng sớm nhận thức được bộ mặt thật của xã hội “Sự áp bức của kẻ bạo
ngược, sự trì chậm của công lý, hỗn xược của cường quyền, miệt thị của kẻ bất tài…” và chàng đau
khổ khi trước mắt mình “Đan Mạch là một ngục thất rộng lớn, một nhà tù đáng ghê
tởm nhất.” …Ngủ có thể chỉ là mơ. Hừ! đây mới là điều khó khăn vì
trong giấc ngủ của cõi chết ấy, khi ta
dã thoát khỏi thẻ xác trần tục này, những giấc mơ nào sẽ tới, điều đó
làm ta phải suy nghĩ. Chính điều đó gây ra bao tai hoạ cho cuộc sống dằng dặc
này. Bởi vì, ai là người có thể chịu đựng được những roi vọt và khinh bỉ của thời
đại. Sự áp bức của kẻ bạo ngược, hống hách của kẻ kiêu căng, những nỗi dày vò của
tình yêu tuyệt vọng, sự trì chậm của công lý, hỗn xược của cường quyền, sự miệt
thị của kẻ bất tài đối với đức tài nhẫn nhục.”
Và cõi thế quá ô trọc, chỉ có cái chết mới giải thoát nó. Nhưng Hamlet
không chết, phải chăng vì chàng quyết sống để hành động, để trả thù. Thực tế,
“nỗi sợ làm làm cho tâm trí rối bời và bắt ta phải cam chịu mọi khổ nhục trên
cõi thế này còn hơn là bay tới những nỗi khổ nhục khác mà ta chưa hề biết đến”.
Nỗi sợ ấy kéo Hamlet về với cuộc đời, ngăn không cho chàng tự vẫn. Trí tụê giúp chàng thấu hiểu mọi mâu thuẫn
và nhận thức được những triết lý đắng cay, đau đớn của cuộc đời. Dù đã hành động
và giải quyết được hận thù tuy nhiên bi kịch của Hamlet đó là bi kịch của “một
trí tuệ thức tỉnh quá sớm” một trí tuệ quằn quại trong đau đớn giữa một thực tại
thù địch với nó.
Có thể nói, đề tài trí tuệ
là một trong những đề tài quan trọng nhất của thời đại Phục hưng.
Đề cập tới vấn đề trí tuệ Shakespeare góp một tiếng nói vào việc nhận thức đời
sống mang đến cho bi kịch những giới hạn, những khả năng mới. Đặc biệt khi đặt
tác phẩm vào thời đại Phục Hưng thì giá trị và tư tưởng của tác phẩm lại càng
thêm nổi bật. Trong thời đại ấy, con người được xem là trung tâm của vũ trụ, là bản thể, đối tượng nhận thức. Con người cá nhân
được giải phóng, trí tuệ được thức tỉnh để giúp con người nhận ra bản chất của
xã hội soi sáng những mâu thuẫn bi thảm
nhất của cuộc đời. Chính trí tuệ là nguyên nhân khiến con người ta ý thức sâu sắc
về hiện thực cũng như nỗi khổ của mình. Bởi vậy, khi nhận thức vấn đề “Sống hay
không sống, tồn tại hay không tồn tại” thể hiện một cách tập trung nhất những
đau khổ, những giằn vặt của nhân vật Hamlet khi đề cập đến rất nhiều những vấn
đề của thời đại: “Chịu đựng tất cả những viên đá những mũi tên số phận phũ
phàng, hay là cầm vũ khí vùng lên mà chống lại với sóng gió biển khổ. Chống lại
để mà diệt chúng đi đằng nào cao quý hơn.
Chính vì những giá trị
ấy mà cho đến ngày nay, Hamlet vẫn không hề mất giá trị hiện đại của nó. Với bi
kịch xuất phát từ trí tuệ, Hamlet trong văn học thế giới đã chứng tỏ tài năng
nghệ thuật của Shakespeare_người mở đường cho phương pháp xây dựng nhân vật điển
hình đa dạng, trên cơ sở phân tích sâu tâm lí nhân vật và triết lý cuộc sống.
b. Bi kịch của một cá nhân cô độc
Hamlet của
Shakespeare ra đời vào năm 1601. Tác phẩm mở ra cả một thời đại mới của bi kịch.
Trước đó, Shakespeare chỉ chuyên viết hài kịch và kịch lịch sử. Những vở kịch
này đã vạch trần sự thối nát, tàn bạo của chế độ phong kiến lỗi thời. Có điều,
khi đấu tranh chống lại những tàn dư của chế độ phong kiến, cũng như những nhà
nhân văn chủ nghĩa khác, Shakespeare vẫn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của xã
hội. Nhưng từ những năm 90 của thế kỉ XVI thì tình hình nước Anh bắt đầu thay đổi.
Chính thể chuyên chế từng giữ vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại
tình trạng phong kiến, cát cứ, ngày càng trở nên thối nát, đốn mạt. Giai cấp thống
trị bộc lộ rõ bản chất phản nhân dân của
nó. Những tệ nạn thời Trung cổ được hồi sinh với những hình thức khủng khiếp
hơn trước rất nhiều. Quan điểm xã hội và triết học của Shakepeare vì thế cũng
trở nên phức tạp. Ông nhận ra những mâu thuẫn của chế độ chuyên chế tư sản. Ông
muốn phân tích, khám phá bản chất của những mâu thuẫn ấy. Và sáng tác của
Shakepeare đã phản ánh một cách thiên tài toàn bộ sự lạc điệu của đời sống xã hội
đương thời.
Trước khi bi kịch
Hamlet ra đời, Shakepeare đã có Giuliut Xeda (1599). Hệ thống nhân vật trong
tác phẩm này được chia làm hai tuyến:
bên này là các chiến sĩ Cộng hòa La mã chống lại bên kia gồm vua Xeda
cùng toàn bộ chế độ quân chủ do y tự dựng nên.Trong cuộc đấu tranh bảo vệ tự do
thì các chiến sĩ Công hòa đụng độ một sức mạnh dường như không gì bẻ gãy nổi.
Dù có nhiều phẩm chất cá nhân của những trang tuấn kiệt, những đấng quân tử, những
bậc anh hào, nhưng các chiến sĩ vẫn lần lượt bị đàn áp, đè bẹp bởi bước đi lên
tất yếu của lịch sử. Có thể thấy, các tuyến nhân vật trong Giuliut Xeda đã phản
ánh một tương quan lực lượng xã hội kiểu mới. Xung đột lịch sử này đã hé lộ ánh
sáng để ta hiểu Hamlet và cái mà Shakepeare muốn nói qua bi kịch này.
Phần mở đầu bi kịch của
Hamlet cũng chính là phần mở ra một tình thế lịch sử. Ấn tượng đầu tiên mà nó
mang lại khi ta xem vở kịch chính là sự lo âu, kinh hoàng, là linh cảm về những
biến động dữ dội rồi sẽ xảy ra. Việc hồn ma xuất hiện đã làm nổi bật bầu không
khí bao trùm đất nước Đan Mạch. Cả đất nước sống trong lo âu, sợ hãi. Hoàn cảnh
rất bất lợi. Có cái gì đang thối nát trong đất nước Đan Mạch này. Đó là điềm
báo trước một tai họa kinh hoàng cho đất nước.
Quả là những gì đang
xảy ra trong tác phẩm Hamlet có liên quan tới những vấn đề trọng đại mang tầm cỡ
quốc gia. Vua Đan Mạch là Claudius và cả triều đình của y hợp lực lại tạo thành
một liên minh ma quái. Một mình chàng Hamlet phải đương đầu với cả khối liên
minh ấy. Hoàn cảnh, không khí bủa vây thù địch với chàng Hamlet ghê gớm.
Bởi Hamlet là một
hoàng tử, dĩ nhiên chàng thuộc về đẳng cấp cao nhất của xã hội quý tộc. Nhưng
nhờ được giáo dục và dạy dỗ trong trường đại học, Hamlet còn là gương mặt tiêu
biểu cho lớp người tiên tiến của thời đại Phục hưng, đầu óc thấm đẫm tinh thần
nhân văn. Hamlet chia sẻ niềm vui với nhân loại vừa thoát khỏi ngục tù của chế
độ Trung cổ. Trước mắt chàng là cả một viễn cảnh huy hoàng, con người trở thành
trung tâm của vũ trụ, ngày càng hoàn thiện và rạng rỡ. Hamlet nhìn đời bằng đôi
mắt tràn đầy sự lạc quan. Vậy mà, trở về
Đan Mạch, Hamlet phải chạm trán ngay với một thực tại phũ phàng. Đâu đâu cũng
là cảnh rượu chè thô bỉ. Cuộc đời quá ư ô trọc. Hamlet vô cùng kinh hoàng trước
sự dối trá, thói giả nhân giả nghĩa nghiễm nhiên ngự trị khắp cung đình. Cái gì
cũng khiến chàng thất vọng. Hamlet thấy thất vọng trước cuộc hôn nhân quá vội
vàng của mẹ chàng. Rồi những kẻ từng là bạn của chàng thuở ấu thơ, nay trở
thành lũ tay sai chuyên rình mò, nghe lỏm. Điều này khiến chàng trở nên lạc
lõng giữa cả thế giới xấu xa.
Chạm trán với cuộc đời
đầy rẫy sự lừa dối và ám muội, Hamlet tan vỡ lí tưởng nhân văn mà mình hằng ấp ủ
xây dựng. Nói như Aristote trong cuốn “Nghệ thuật thơ ca”: “bi kịch là sự miêu tả những con người tốt, nên ta cần phải bắt chước
những họa sĩ vẽ chân dung giỏi: tức là khi họ vẽ một người nào đó, thì đồng thời
với việc làm cho các bức chân dung giống người được vẽ, họ còn vẽ người đó
thành người đẹp hơn thực. Nhà thơ cũng vậy, khi tả những người cáu kỉnh, nhẹ dạ,
hoặc những kẻ có cá tính tương tự thì nhà thơ cần phải miêu tả họ thành những
con người cao thượng.” Hamlet đã nhẹ dạ cả tin khi chấp nhận lời thách đấu
của Lacoto và cuối cùng vì thiếu cảnh giác nên chàng đã bị mũi kiếm tẩm độc đâm
vào người. Nhưng chính điều này đã khiến chàng trở nên cao thượng hơn những bọn
người đầy sự mưu mô toan tính trong đầu. Chàng cao thượng bởi chàng chính trực
và cương nghị. Cả xã hội muốn kéo chàng xuống nhưng nào có được, chàng vẫn giữ
vững nhân cách của mình dù cho nhận lấy kết thúc đau thương.
Tính cách cao thượng ở
Hamlet là một trong những tính cách quan trọng theo quan niệm về nhân vật của
Aristote. “Về tính cách, cần chú ý bốn điểm.
Điểm thứ nhất và cũng là điểm quan trọng hơn cả là tính cách cần phải cao thượng.
Như trên đã nói, nhân vật hành động sẽ có tính cách nếu trong mọi lời nói và việc
làm đều biểu thị khuynh hướng của ý chí dù là khuynh hướng thế nào đi chăng nữa,
nhưng tính cách đó sẽ là cao thượng nếu nó bộc lộ ra khuynh hướng ý chí cao thượng.”
. Nhân vật Hamlet tiêu biểu cho loại tính cách. Nhưng đồng thời nó cũng khiến
chàng lâm vào bi kịch bởi chàng đứng trên cả xã hội đầy rẫy sự lường gạt, xấu
xa.
Bi kịch của Hamlet
không chỉ là bi kịch của một con người có trí tuệ sáng suốt mà còn là bi kịch của
cá nhân lạc lõng giữa xã hội ô trọc thời bấy giờ. Đó là bi kịch đau khổ khi
không biết giãi bày cùng ai, chỉ biết chất chứa bao dằn vặt và đau đớn.
2.2.
Những
chủ đề được gợi ra từ bi kịch của nhân vật Hamlet
Bi kịch Hamlet chứa đựng
bên trong nhiều chủ đề, chẳng hạn như công lí và sự báo thù, số mệnh con người
và mục đích của đời người, sự lành mạnh và điên dại, bề ngoài và thực tế, người
đàn bà và tình yêu, quyền lợi và bổn phận làm vua, thuốc độc và sự tham nhũng.
Trước hết, tất cả các
hành động của Hamlet đều do hồn ma đặt ra cho Hoàng tử, đó là sự báo thù cho
người cha đã bị sát hại một cách ám muội.
Tới lúc này, tâm hồn của Hoàng tử bị dằn vặt bởi các câu hỏi như : Báo thù là một
hành động tốt hay xấu? , Vua Claudius có thực sự phạm tội không và có đáng bị
trừng phạt không?, Trách nhiệm trừng phạt có phải thuộc về Hamlet không?, Việc
thi hành công lí thuộc về quốc gia hay nằm trong tay một người như Hoàng tử và
khi trả thù thì làm sao phân biệt được người tốt và người xấu?
Liên quan tới chủ đề
trả thù là các suy tư trong tâm hồn của Hoàng tử. Đó là: Trong đời người, có phải
do một quyền lực nào cao cả hơn, toàn năng hơn, đã hướng dẫn con người trong
các hành động? Điều này lại gợi ra chủ đề về tâm linh con người, mối quan hệ giữa
thể xác và tinh thần. Hay như: Khi hành động, Hamlet đã tự hỏi làm sao theo được
thứ trật tự của vũ trụ, để cho cuộc đời này mang đầy ý nghĩa? Chàng theo đuổi
việc báo thù vậy thì tâm hồn chàng có còn lành mạnh nữa hay không?
Nỗi lòng rối bời của chàng khi nhìn thấy mẹ mình trong vòng tay của kẻ đã giết cha mình,
ai nào có hay? Đây mở ra một chủ đề về khát khao của người phụ nữ trong tình
yêu, khi người chồng qua đời. Liệu chuyện thủ tiết với người chồng quá cố có cần
thiết và thiêng liêng cho trọn đạo vợ chồng hay không?
Từ đây, không chỉ đơn
giản là việc trả thù cho cha, mà Hamlet còn nghiệm ra nhiều vấn đề nữa, chàng đấu
tranh giữa tình cảm và lí trí, giữa con tim và trí óc. Bởi tâm hồn thanh cao của
chàng không cho phép chàng hành động mà thiếu suy nghĩ chín chắn. Những câu hỏi
dằn vặt chàng cũng chính là những vấn đề đặt ra cho thời đại ngày hôm nay khi cần
phán xét một điều gì đó. Nó là sự tổng hợp của nhiều khía cạnh và con người phải
nhìn ra được điểm mấu chốt để mà giải quyết.
Hamlet đã mở ra một
yêu cầu về đạo đức và tài năng đối với những con người đứng đầu đất nước. Và
khi họ dùng những thủ đoạn hèn hạ để leo lên vị trí quyền lực thì phải đáng bị
trừng trị. Đó là lẽ phải và sự công bằng, bác ái mà Hamlet đã đại diện cho nhân
dân để nói lên tiếng nói đó.
Như khi chàng Hamlet
giả điên, ai ai cũng tưởng thật, nhưng ai nào có hay, đó chỉ là hình thức ngụy
trang kín đáo của chàng mà thôi. Một vỏ bọc hoàn hảo. Vậy thì cuộc sống ngày
hôm nay với biết bao cái thật, cái giả đan xen lẫn lộn? Làm sao ta nhìn ra được
bản chất của nó.
Sự bất hủ trong những
sáng tác của Shakepeare chính là từ một câu chuyện mà ông đã gợi ra nhiều chủ đề
mang tính nhân văn đến hậu thế mai sau. Những chủ đề ấy còn là ngầm ẩn đằng sau
lớp ngôn từ đầy tâm lí của ông. Nó chỉ được nhận ra khi người đọc có sự đồng điệu
và hiểu được những tư tưởng mà tác giả gửi gắm. Và Hamlet là một trong những
tác phẩm để đời của ông, khi mà biết bao vấn đề về cuộc sống và mối quan hệ của
con người đã được Shakepeare đề cập tới.
2.3.
Hamlet
– con người hội tụ mọi tố chất của một con người Phục Hưng
Châu Âu của
thế kỉ XIV, XV đã dấy lên một cuộc vận động tư tưởng và văn hóa rất mực hào hứng
và quyết liệt mà loài người chưa từng thấy, người ta gọi đó là thời kì Phục
Hưng. Một số học giả phương Tây cho rằng phong trào này nhằm làm sống lại nền
văn học cổ đại Hi Lạp và La Mã cổ xưa mà Trung cổ phong kiến và Nhà thờ đã cắt
đứt, làm sống lại và tiến tới một thời truyền thống rực rỡ chứ không phải là
quay trở lại theo cái cũ. Có thể nói rằng, sản phẩm tinh thần của thời đại Phục
Hưng là trào lưu tư tưởng nhân văn chủ nghĩa, nổi bật nhất là yêu cầu và khát vọng giải phóng con người
thoát khỏi những xiềng xích trói buộc của thời Trung cổ phong kiến và nhà thờ.
Tìm thấy và phát huy trong đó vẻ đẹp của con người, cuộc sống tự nhiên trần trụi
nhất của con người, ý chí đấu tranh cho tự do, công bằng, chống thiên nhiên và
chống áp bức xã hội.
Trước thời
Phục hưng, Trung cổ phong kiến và nhà thờ đã truyền bá vào con người những quan
niệm sống theo kiểu “khung tù”, đen tối và nghiệt ngã. Họ xem nhẹ cuộc sống của
con người nơi trần thế, họ cho nó là địa ngục, và cho rằng, thiên đường là khi
con người chết đi. Chính điều này đã kiềm chế rất nhiều quan niệm sống đúng
nghĩa của một con người, làm mất đi khả năng sống và hưởng thụ một cách thật sự
của con người nơi trần thế. Để chống lại quan niệm phản tự nhiên đó, con người
đã đấu tranh trên chính tinh thần của chủ nghĩa nhân văn, cho rằng, con người cần
phải sống một cách thật nhất, chính đáng nhất ngay khi ta còn đang sống: được
hưởng thụ, được đau khổ, được thỏa mãn niềm đam mê vật chất, tinh thần và ngay
cả thú vui mà thời trung cổ phản ứng gay gắt nhất đó chính là thú vui xác thịt.
Tinh thần
Phục hưng được thể hiện mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực: văn hóa, kiên trúc, điêu
khắc,… nhưng nổi bật nhất có lẽ là trong văn học với nhiều tên tuổi nổi tiếng,
với nhiều khuynh hướng phức tạp nhưng tiêu biểu nhất vẫn là khuynh hướng tư sản
ca ngợi con người hoàn toàn tự do, giải phóng khỏi mọi xiềng xích phong kiến. Chính
trào lưu tiến bộ này đã đem sức sông mới cho văn học thời phục hưng, làm cho
con người như được tái sinh, được sống lại.
Shakespeare
là đại diện, là tiếng nói tiêu biểu cho khuynh hướng tư sản trên. Shakespeare
đã từng ca ngợi: “Kì diệu thay là con người!”.
Con người cao quý làm sao về lí trí, vô tận làm sao về năng khiếu, về trí tuệ,
nó có thể sánh tài thượng đế”. Ông đề cao giá trị sống của một con người
ngay khi còn sống. Trong Hamlet, ông đã xây dựng nên một Hamlet điển hình cho
con người thời Phục hưng, một con người luôn đi tìm giá trị sống đích thực và
luôn phải đấu tranh cho giá trị đó. Con
người ấy phải chạy đua với sự phơi bày thối nát của xã hội lúc bấy giờ, phải đấu
tranh kịch liệt. Shakespeare không mất lòng tin vào các nguyên lý nhân bản
nhưng cách cảm thụ thế giới của ông đã đổi khác. Chính từ góc độ của những lý
tưởng đó mà Shakespeare nhận thức về các mâu thuẫn xã hội một cách gay gắt hơn,
sâu sắc và kịch liệt hơn. Giờ đây các mâu thuẫn đó chiếm ưu thế trong kịch của
ông. Chúng khó chấp nhận sự dàn xếp hài hòa mà đòi hỏi phải đấu tranh đến cùng,
và trong quá trình đó toàn bộ điều ác của cuộc đời phải bị bộc lộ. Cảm quan bi
kịch chiếm ưu thế trong các sáng tác của thời kỳ này. Shakespeare say mê tìm lối
thoát cho những bi kịch cuộc sống. Ngay khi cảm thụ cuộc đời một cách u ám nhất,
Shakespeare vẫn giữa lòng tin vào con người, vào thắng lợi cuối cùng của những
nguyên lý tốt đẹp trong đời sống.
Nhân vật
Hamlet mà ông dựng nên là nhân vật biết đấu tranh. Hamlet nhìn thấy những thế lực
đen tối mới đang đe dọa con người, đó là đồng tiền và những kẻ nắm được nhiều
tiền, nó đang vùng vẫy để thoát khỏi nơi kìm hãm nó và vươn đến thống trị một đất
nước. Ông đã để cho nhân vật của mình đi tìm và đấu tranh trên những đường
ranh giới vô hình, mong manh, nhưng không bao giờ lạc bước té ngã. Hamlet đã phải giằng xé, phải chạy
đua giữa lí trí và tình cảm để mưu tính việc vạch trần tội ác của người
chú và trả thù cho người cha thân yêu. Chàng đã làm,
chàng đã dựng một vở kịch nhân văn để cho hòang hậu thấy rõ tội lỗi mà mẹ chàng
phạm phải và để cho người chú của mình thấy rõ tội ác, chàng đã thẳng tay giết
chết những kẻ dám chống lại ý định của mình. Sự tự ý thức về việc làm của chàng
là cao, hành động của chàng là đúng nhưng vì chính sự đấu tranh mang nặng tình
người khiến chàng lại rơi vào cái bẫy mà bọn xấu xa đã giăng nên đẻ hãm hại
Hamlet, Hamlet đã cố gắng xây dựng lại tư tưởng con người cho nó ngay ngắn, vững
vàng, để cho nó tồn tại tự do và công lí, dù biết sự chống chọi của mình có thể
bị dập tắt và ngay cả bản thân cũng chịu nhiều nguy hiểm. Nhưng cái chết của
Hamlet và tiếng chuông mở đường cho sự Phục hưng lâu dài và nghiêm túc về cuộc
sống con người. Sự hi sinh của Hamlet được mệnh danh là sự hi sinh của một người
chiến sĩ tiên phong trên con đường tranh đấu:
“Xin bốn vị tướng quân
Hãy khiêng Hamlet như một người chiến sĩ
.....
Nhạc và nghi thức dành cho người chiến sĩ
Sẽ tấu lên vì người khúc tráng sĩ ca”
Hamlet còn là một con người nhìn thấy rõ sự cấu kết giữa thế lực
cũ và thế lực mới, giữa chế độ phong kiến cũ thối nát và tầng lớp xã hội mới
đang được hình thành lúc bấy giờ, nó có tên là tư sản. Hamlet nhận thấy điều
đó ngay trong chính nơi cung điện mà chàng đang sống, ngay trên chính cái đất
nước mà chàng đang sống, khiến chàng phải thốt lên: “Đan Mạch là nhà tù đen tối nhất”. Phải chăng nơi đó đang kiềm kẹp bao
giới hạn của một con người, đẩy con người xuống bờ vực thẳm. Phải chăng đó là
nơi đại diện cho bầu không khí đấu tranh của xã hội Anh lúc bấy giờ, buộc con
người phải đứng dậy, bước từng bước đấu tranh chống lại. Nhân vật Hamlet cứ tưởng
xã hội ấy sẽ đem lại quyền lợi nhân văn
chính đáng cho con người, nhưng không, nó đang bị các thế lực đen tối chà đạp một
cách không thương tiếc. Chính vì thế mà sự vùng lên, đi tìm lối thoát của Hamlet vô tình lại
trở thành bi kịch cho chàng, phản ánh sự bế tắc và tan vỡ của tinh thần nhân
văn trước sức mạnh của các thế lực phản nhân văn. Nhưng tinh thần đấu tranh thì
tác giả vẫn giữ nguyên vẹn cho đến phút cuối cùng. Cận kề cái chết, Shakespeare
vẫn để cho nhân vật của mình hướng đến những điều tốt đẹp nơi thiên đường, vẫn
để họ nói lên tiếng nói đấu tranh cho tư tưởng mới toàn vẹn cả về lí trí, tình
cảm, lương tâm. Hamlet vẫn cất cao hơi thở để nói với Horaxio những điều cuối
cùng cho sự minh bạch và sáng tỏ mọi việc sau khi chàng chết: “Nếu như lòng bạn vẫn còn tha thiết đối với
tôi, xin hãy nán lùi phút giây sung sướng được siêu thoát, kéo dài thêm ít phút
nữa cuôc sống nhọc nhằn trên cõi đời ô trọc này, đẻ kể rõ ngọn ngành câu chuyện
của tôi!”
Hamlet mà Shakespeare xây dựng nên còn là đại diện cho ý thức cá nhân và của một thời đại. Hamlet nhận thấy sự đau khổ, nhận thấy sự thoái hóa, sự bẩn thỉu trong bản
chất sống của con người: “Một vườn hoang mọc lên từ những hạt giống độc, đầy
rác rưởi, thối tha”. Chán chường và tuyệt vọng, nhưng không gục ngã, đó là con
người đấu tranh của thời đại ấy. Hình tượng của Hamlet là một hình tượng càng
ngày càng cao lớn mãi với đôi mắt và tầm nhìn rộng ra xã hội và thế giới.
Hamlet là đại diện cho nỗi đau chung cho những con người đang sống trong thời đại
buổi đầu tư sản, thời đại điên loạn và tan tác, thời đại mà nhìn vào đâu của đất
nước cũng như thấy nhà tù cho tâm hồn con người: âm u và đen tối. Nhận thức về
nhà tù là sự tự ý thức về cuộc sống tối tăm và đau khổ của con người một
thời. Và chính vì thế họ mới thấy giá trị sông của một con người thật sự nằm ở
tiếng nói tự do và công bằng. Con người trong Hamlet mong muốn được suy nghĩ và
hành động theo lí trí của mình, muốn trỗi dậy mạnh mẽ để được đấu tranh mạnh mẽ.
Hamlet đã không do dự biến suy nghĩ của mình thành hành động cụ thể, không ngần
ngại nói thẳng cho hoàng hậu và Ôlephia biết những suy nghĩ trong chàng. Chính
sự tự do, chính sự nhận thức đã cho thấy tinh thần Phục hưng thật sự trong
chàng, làm cho chàng hòa mình vào nhân dân và những con người đang đau khổ,
mong muốn cùng họ phá sạch những gông cùm, xiềng xích trói buộc những tự do. Đã
đến lúc con người phải để ý thức và suy nghĩ tiến bộ trong mình trỗi dậy, đấu
tranh dứt khoát và mạnh mẽ để phá vỡ bóng tối thời Trung cổ và nhà thờ đã đeo
gông con người trong suốt những “đêm trường Trung cổ”.
Hamlet trong vở kịch không chỉ là nhân vật mà là đại diện
cho một tầng lớp con người trong buổi đầu diện kiến xã hội tư sản. Nó phản ánh
sự tự ý thức mạnh mẽ của con người, đó là những nỗi băn khoăn lo lắng của con
người trước xu thế phát triển của tình hình xã hội không chỉ của nước Anh mà
nhiều nước Châu Âu thời bấy giờ. Đó cũng là một câu hỏi lớn cho sự nhân sinh của
một con người, giữa sống và tồn tại, giữa lựa chọn và không lựa chọn, giữa đáu
tranh và không đấu tranh.
3.
Nghệ thuật xây dựng tính cách
nhân vật
3.1
Nghệ thuật chuyển nhân vật trong cốt truyện
cũ thành nhân vật đầy sáng tạo
Theo
Aristote cốt truyện là cơ sở, là linh hồn của bi kịch, sau đó mới đến các tính
cách, Cốt truyện phải được
sắp xếp như thế nào để bất kì ai dù k xem được biểu diễn cũng phải
rùng mình và xót thương theo trình tự phát triển các sự kiện.
Thật vậy, cốt truyện là thứ lôi cuốn người đọc đến với tác phẩm một cách đầy hứng
thú. Nhân vật được xây dựng trên nền cốt truyện ấy qua các tình tiết sẽ trở nên
sáng tạo nếu tác giả vận dụng được một cách tinh tế các yếu tố gây dựng nên
hình ảnh nhân vật. Vì thế việc tính cách nhân vật có được thể hiện thành công
hay không không thể thiếu cốt truyện. Cốt truyện sẽ là cái sườn đầu tiên cho
hình ảnh nhân vật bám vào.
Nhân vật Hamlet được secxpia viết dựa trên nhân vật
Amleth phỏng theo truyện cổ Đan Mạch. Đó là câu chuyện giữa Horwendil và Feng. Horwendil lên ngôi
vua sau khi vua Đan Mạch qua đời. Do ghen ghét anh, Feng lập mưu giết
Horwendil, lên nối ngôi và lấy chị dâu. Con trai của Horwendil là Amleth giả
điên để tìm cách trốn tránh và báo thù. Feng không tin, cho người nấp sau rèm
rình nghe cuộc nói chuyện giữa Amleth và Hoàng hậu, Amleth phát hiện và giết chết
kẻ đó. Feng phái Amleth sang Anh với bức thư yêu cầu vua Anh giết chết Amleth.
Amleth đánh tráo thư, yêu cầu vua Anh chém hai kẻ tháp tùng và gả công chúa cho
Amleth. Một năm sau, Amleth từ biệt vợ, trở về giết chết Feng và lên ngôi vua.
Câu chuyện có nội dung gần như giống hệt với Hamlet nhưng chủ đề thì lại không
giống. Đây chỉ là sự trả thù đẫm máu mang tính gia đình, chứ không có tính bi kịch.
Theo Aristote thì tính cách nhân vật cần phải
cao thượng. Nhân vật hành động sẽ có tính cách nếu trong mọi lời nói và việc
làm đều biểu thị khuynh hướng của ý chí dù là khuynh hướng thế nào đi nữa.
Nhưng tính cách đó sẽ cao thượng nếu nó bộc lộ ra khuynh hướng ý chí cao thượng.
Đa số các nhân vật muốn chiếm kĩnh giá trị của thời đại đều mang trong mình bản
chất cao thượng mà tác giả xây dựng.
Đến với Sêcxpia nhân vật Hamlet đã trở thành hình mẫu lý tưởng của thời đại
là một con người có tính cách cao thượng. Hamlet hội đủ mọi tố chất của một con
người Phục hưng. Ngoài ra, Hamlet còn là một đạo diễn tài ba, một trí thức am
hiểu sâu sắc nhiều phương diện cuộc sống…Sêcxpia trao cho chàng hai nhiệm vụ:
báo thù cha và dựng xây thời đại. Hamlet với trách nhiệm, bổn phận hoàng tử của
mình, người sẽ gánh vác vai trò đứng đầu nhà nước, lại thiên về nghĩa vụ dựng
xây. Việc kết hợp hai chủ đề này trong tác phẩm đã khiến mỗi lời nói, hành động
của hình tượng trung tâm Hamlet thêm phần đa dạng.
Sêcxpia đã kế thừa những người đi trước một phần đáng kể
cho cốt truyện và những tình tiết cơ bản. Nhưng chỉ có ông thì chuyện Amleth mới
trở thành bi kịch Hamlet với tất cả giá trị có thể bất chấp thời gian, không
gian tường tồn như một kì quan nghệ thuật.
Sêcxpia đã cải biến câu chuyện trả
thù mang tính chất riêng tư của người xưa thành một vở kịch phản ánh sâu sắc những
đặc trưng của thời đại ông, nói lên được những nỗi băn khoăn trăn trở về lẽ sống,
về ước vọng của người thời đại ấy một cách vô cùng thống thiết. Đó là một tác
phẩm kết hợp tuyệt vời giữa thi ca và triết học, giữa nghệ thuật và tư tưởng,
giữa sân khấu và cuộc đời.
3.2 Nghệ thuật trộn lẫn giữa cái bi và cái hài
Bằng tài năng sáng tạo, Shakespeare đã thể hiện năng khiếu
kì diệu của mình khi chọn đúng ngôn ngữ đắt nhất dể diễn tả điều ông muốn
nói. Với Hamlet, ông chọn thể loại bi kịch.
Không chỉ dứt khoát chọn bi kịch, ông còn thấy rõ là ở đây phải trộn lẫn cái bi
với cái hài, cái bi với cái hùng, cái cao cả với cái ti tiện. Shakespeare đã
phá vở những giới hạn ngặt nghèo, cũ kỉ mà còn sáng tạo ra những biện pháp mới,
mở ra những chân trời bao la cho nghệ thuật nói chung.
Hamlet vừa là nhân vật bi kịch, vừa là nhân vật hài kịch.
Cái bi – hài của Hamlet toát lên ở chỗ nhân vật mang khát vọng, dục vọng thật lớn
lao nhưng kết quả thì không được như ý muốn. Còn cái xấu, cái ác, cái kệch cỡm…phải
bị tuyệt diệt thì lại nhởn nhơ tồn tại, lên mặt giáo huấn cái tốt đẹp, nhân
văn. Nếu cái hài là dùng tiếng cười tống
tiễn cái xấu, cái già cỗi, lỗi thời… cái hài
trong “Hamlet” lại được dùng để khóc cho sự suy tàn của lý tưởng nhân
văn Phục hưng.
Trước hết ở Hamlet Shakespeare đã để cho nhân vật chính của
mình đi từ bi kịch đau thương của tinh thần đến thể xác, đồng thời có sự trộn lẫn
cái hài tạo ấn tượng sâu sắc cho vở kịch. Tác giả đã xây dựng nhân vật Hamlet
trên cái nền của thời đại Phục hưng, một thời đại tồn tại kẻ xấu nhiều hơn người
tốt, cái ác luôn luôn hoành hành trong xã hội, thế nhưng, một con người như
hoàng tử Hamlet lại hiện lên với nhiều nét đáng kính và được xem là một con người
tiêu biểu của thời đại đó.
Hamlet là một con người hào hoa, phong nhã và sống rất có
bản lĩnh. Thế nhưng, khi Vua cha đột ngột qua đời, đây có thể coi
là một nỗi đau không nguôi của hoàng tử Hamlet. Một cái chết quá bất ngờ, Hamlet
không thể tin nổi dù đó là sự thật và trong khi mọi việc xẩy ra thì chàng không
có mặt ở nhà, chàng không tin cha mình lại
có một cái chết đau đớn và vội vàng đến vậy. Vì thế, lòng Hamlet đau đớn vô
cùng và có lúc chàng tưởng như gục ngã, không thể gượng dậy được nữa. Hamlet trở
nên khác hẳn, chàng không còn tin một điều gì của cuộc đời nữa. Niềm đau cha mất
chưa qua đi thì sự đau đớn lại đến với chàng. Sau cái chết đột ngột của phụ
thân không được bao lâu thì mẹ chàng đã vội vàng tái giá mà lại tái giá với người
chú ruột, em của bố mình là Clôđiut, sự đau đớn ấy khiến hoàng tử Hamlet dường
như mất hết niềm tin vào cuộc đời, chàng chán ghét tất cả. Từ sự việc này đã
khiến cho chàng nhiều mối nghi ngờ, đau khổ. Chàng nghi ngờ cái nguyên nhân gây
ra cái chết đột ngột của cha, từ sự vội vả, gấp gáp của mẹ. Chàng đã từng chua
chát giễu cợt sự vội vàng này: “Để tiết kiệm mà!...Thịt quay trong đám tang đem
dùng làm đồ nguội trong đám cưới
Có thể thấy rằng, Shakespeare đã tạo ra cho nhân vật của
mình nhiều tình huống độc đáo, đó là nghệ thuật trộn lẫn giữa cái bi và cái
hài. Lại một lần nữa chàng chua chát giễu cợt: “Nhẹ dạ, tên gọi của mi là đàn
bà mới đúng!”. Mà đây đâu phải chỉ có sự nhẹ dạ? Vì cuộc hôn nhân giữa mẹ và
chú ruột đâu phải là chuyện bình thường? Đạo lí xưa nay coi đó là tội loạn
luân. Ấy thế mà cả mẹ và chú đều nhởn nhơ, đắc ý, ngày đêm phe phỡn trong yến
tiệc và đắm đuối trong chăn khối loạn luân ấy. Họ còn khuyên chàng nên vất bỏ bộ
mặt rầu rỉ đau thương mà tận hưởng lạc thú ở cõi đời như họ.
Shakespeare đã để cho nhân vật Hamlet rơi vào bi kịch
không lối thoát, nổi đau chồng chất nổi đau. Chàng phải biết vượt qua số phận,
vượt lên tất cả để đem lại công lí, đem lại sự trong sạch cho bản thân và đồng
thời cũng để trả thù giết cha. Shakespeare đã rất tài tình khi trộn lẫn giữa
cái bi và cái hài trong nhân vật của mình. Từ đau thương để biến thành hành động.
Hành động của Hamlet là giả điên để tìm hiểu nguyên nhân cái chết của cha và
dũng cảm để đưa lại công lí cho xã hội. Chàng sẵn sàng hi sinh tất cả nhưng
không thể chấp nhận một cuộc sống loạn luân, đấy chính là sự sáng tạo độc đáo của
Shakespeare. Cái hài và cái bi hoà lẫn vào nhau để tạo nên một phong cách sáng
tạo mới.
3.3 Nghệ thuật tạo dựng và dẫn dắt hành động kịch
Vì bi kịch là sự mô phỏng hành động, mà hành động
là do những nhân vật hoạt động tạo ra, những nhân vật này phải có tính cách và
phương thức tư tưởng, nên tư tưởng và tính cách là hai nguyên nhân của hành động,
chúng cũng là nguyên nhân của thành công hay thất bại. Trong mỗi bi kịch cần phải có sáu thành phần,
trên cơ sở đó mới thành một vở bi kịch nào đó: Cốt truyện, tính cách, tư tưởng,
bài trí sân khấu, văn từ và bố cục âm nhạc. Quan trọng nhất trong đó là thành
phần của các biến cố, vì bi kịch không phải là sự mô phỏng con người, mà là sự
mô phỏng hành động và cuộc sống, niềm hạnh phúc và điều bất hạnh, mà hạnh phúc
hay bất hạnh đều nằm trong hành động. Tính cách quyết định tính chất của mỗi
người, còn hành động thì quyết định hạnh phúc hay bất hạnh. Nếu không có hành động
thì chưa chắc bi kịch đã tồn tại được…..Aristote đã khảng định
sự tồn tại của bi kịch mới làm nên giá trị hay của tác phẩm. Hành động tạo nên
tính cách của nhân vật và chính những hành động kịch đưa nhân vật đến các mối
xung đột cần giải quyết.
Shakespeare Ở vở bi kịch Hamlet, Sêcxpia đã khéo quy tụ
vô khối xung đột, tạo nên tầng tầng lớp lớp mâu thuẫn đan xen, quyện chặt lấy
nhau: xung đột cá nhân, xung đột gia đình, xung đột xã hội, xung đột bên trong,
xung đột bên ngoài, xung đột đơn (Hamlet – Clôđiut), xung đột kép (Hamlet –
Clôđiut – Laơctơ), xung đột bi kịch xen lẫn xung đột hài kịch…Xung đột nào cũng
lên tiếng dành quyền nói tiếng nói cuối cùng về phía mình. Do vậy, hiểu Hamlet
không phải dễ vào thời nào người đọc cũng đều có cách lý giải, cách hiểu riêng.
Shakespeare đã tạo dựng và dẫn dắt hành động kịch với việc
dựng nên hai phe đối nghịch nhau về tất cả mọi phương diện: thịên - ác, chính -
tà, ít - nhiều…làm tiền đề cho kịch phát triển.
Nhân vật Hamlet hiện lên trong vở kịch được coi là một đại
dịên cho bên chính, Bên cạnh Hamlet chỉ còn mỗi Hôraxiô (một người bạn thân của
Hamlet), có nghĩa là chàng không có nhiều cánh tay trợ giúp. Chỉ mình chàng
đương đầu với tất cả. Chàng như mãnh sư đơn độc bị ném ra giữa bầy sói đói,
thèm khát tiền tài và quyền lực. Chàng phải dũng cảm đương đầu với tất cả, đó
chính là con đường mà Hamlet đã chọn.
Khi phụ thân qua đời, Hamlet chỉ còn lại một mình và trước
mắt chàng là Clôđiut, kẻ đã mang tội giết anh để đoạt ngôi báu rồi cướp luôn vợ
của anh mình và một tên tay chân của hắn là Plôniut. Như vậy ta thấy đây là một
cuộc so tài không cân sức, và giờ đây Hamlet chỉ biết tin vào niềm tin của công
lí, tin vào chính bản thân mình. Chàng biết việc mình đang làm, biết đựơc những
gì sắp sửa diễn ra trên đất nước Đan Mạch nhỏ bé này. Một cuộc chiến sớm muộn
cũng sẽ xẩy ra vì chàng không thể cho phép bản thân mình để cho tên phản bội
kia nhỡn nhơ ngoài vòng pháp luật được.
Như Aristote đã nó thì tính cách nhân vật phải
giống như thật lĩnh hội được điều này, Shakespeare đã để cho
Hamlet thực sự biểu lộ thái độ căm phẩn của mình từ cách ăn nói đến hành động cử
chỉ, thái độ của chàng đối với những người xung quanh mà đặc biệt là đối với
Clôđiut, Plôniut và ngay cả mẹ chàng lúc này là vợ của Clôđiut. Quả thật tâm lí
nhân vật khi vấp phải bi kịch sẽ khó lòng mà bình yên, vì thế sự cam phẫn trong
cách thể hiện của Hamlet là điều có căn cứ như thật.
Hamlet đã chiến đấu, một cuộc chiến đấu thầm lặng nhưng lại
rất mãnh liệt, rất hào hùng, gay go và không kém phần ác liệt bởi những thế lực
mà chàng phải đương đầu là những thế lực hung bạo, chúng giám làm tất cả, cho
nên muốn thực hiện được kế hoạch của mình một cách trọn vẹn và thu được thắng lợi
thì Hamlet cần phải có một sức khoẻ, một lòng dũng cảm, nhưng điều quan trọng
nhất ở đây đó là có một niềm tin vào cuộc đời tin vào những gì mà mình đang
làm, trí tuệ mách bảo cho chàng những điều mà chàng làm là hoàn toàn đúng.
Nhận thấy được thế lực hùng hậu của Clôđiut, Hamlet nghĩ
mình không thể công khai chồng đối mà chàng phải biết vận dụng trí thông minh của
mình thì mới có thể dành được thắng lợi. Để tránh khỏi sự truy xét của Clôđiut
và những tên tay chân của hắn và để tránh những sự bất lợi cho mình Hamlet đã
giả vờ điên. Đây có thể xem là một kế hoạch, một kế hoạch mang tính chiến thuật
cao. Nhờ vào việc giả vờ điên của mình mà Hamlet đã nhận rõ hơn bộ mặt thật của
Clôđiut, dùng những từ ngữ cay độc nhất để mắng nhiếc chế độ của tên Clôđiut.
Shakespeare đã để cho nhân vật Hamlet trổ hết mọi tài
năng của mình, ông tin ở Hamlet, tin ở nhân vật của mình. Ở Hamlet, Shakespeare
đã gửi gắm một ước mơ của thời đại, ước mơ về một xã hội thái bình, một xã hội
mà trong đó không có những con người gian ác như Clôđiut, không có những người
mẹ, người vợ như Giectơrut. Xã hội hội này cần phải có những con người như Hamlet,
con người như vậy thì mới có thể cải tạo được thế giới, đưa lại sự bình yên cho
nhân dân. Hamlet là một người hùng có
công tiêu diệt kẻ gian ác nhưng đồng thời tiêu diệt thì phải đi đôi với sáng tạo.
Hamlet nhận ra đất nước Đan Mạch là một nhà tù. “Chính nước Đan Mạch này là một
ngục thất”; “Một ngục thất rất tốt, trong đó có bao nhiêu là gông cùm, hầm giam
và ngục tối; mà Đan Mạch là cái ngục thất đáng ghê tởm nhất”. Và cũng từ việc
nhận thấy được cái bản chất của xã hội mà mình đang sống nên Hamlet có trách
nhiệm giải thoát cho cái xã hội ấy, giải thoát cho những người sống trong xã hội
ấy. Đó chính là điều mà Hamlet nhận ra và cũng chính là điều mà chàng cần phải
xây dựng. Tiêu diệt Clôđiut đồng nghĩa với việc thiết lập lại trật tự của một đất
nước, trật tự của một thời đại.
Trong việc tạo dựng và dẫn dắt hành động kịch của mình, Shakespeare
không những tạo dựng nhân vật Hamlet là người dũng mãnh mà còn thể hiện một con
người hiếu đạo, một tình yêu thuỷ chung.
Shakespeare đã kế thừa một cách có sáng tạo cốt truyện của
những tác giả đi trước để tạo thành một vở bi kịch hoàn chỉnh cả về nội dung lẫn
hình thức. Shakespeare đã biến một câu chuyện trả thù của người xưa thành một vở
kịch phản ánh sâu sắc đặc trưng của thời đại ông, nói lên được những nỗi băn
khoăn trăn trở về cuộc sống, về ước vọng của con người thời đại ấy một cách vô
cùng thống thiết. Hamlet của Shakespeare biết thể hiện mình là một con người
dũng mãnh, cái dũng mãnh đó không chỉ thể hiện ở việc tìm ra kẻ thù và báo thù
cho cha mà còn là một người có nhiệm vụ thiết lập lại trật tự cho xã hội, đồng
thời thể hiện được mình là một con người thông minh, sự thông minh đó đã giúp Hamlet
nhận biết được đâu là bạn, đâu là thù, nó còn cho chàng nhận thấy được đường đi
của lẽ phải, giúp Hamlet tìm ra được chân lí của cuộc đời. Bên cạnh đó Hamlet
còn thể hiện mình là một người con có đạo hiếu. Đạo làm con của Hamlet được thể
hiện ở lòng tôn kính đối với người cha và một tấm lòng bao dung độ lượng đối với
người mẹ đã lầm đường lạc lối. Đây là một chi tiết góp phần tạo nên hình tượng
con người lí tưởng của thời Phục hưng ở trong nhân vật Hamlet.
3.3.4 Nghệ thuật điển hình hóa trong việc xây dựng và thể
hiện tính cách nhân vật
Một trong những cống hiến xuất sắc nhất, nổi bật nhất của
bi kịch của Shakespeare là nghệ thuật điển hình hoá. Shakespeare đã đặt nhân vật
của mình vào một tình huống đầy mâu thuẩn, phức tạp do đó mà toàn bộ tính cách
của nhân vật được bộc lộ ra hết, bản chất của nhân vật cũng được phơi bày rõ rệt.
Trong khi xây dựng nhân vật Shakespeare rất chú ý đến việc mổ xẻ, phân tích cái
quá trình diển biến tâm lí của nhân vật trước mỗi tình huống mà nhân vật gặp phải.
Shakespeare quan tâm mô tả không phải chỉ “cái việc mà nhân vật làm” mà đến cả
“cái cách mà nhân vật làm” nữa. Chính vì vậy mà nhân vật của ông được cá tính
hoá cao độ.
Hoàng tử Hamlet – nhân vật điển hình là người được Shakespeare
chú ý miêu tả chi tiết và tỉ mỉ . Shakespeare xây dựng nên khối mâu thuẫn lớn
trong tác phẩm bằng sự xung đột giữa hoàng tử Hamlet - người đi đòi nợ giết cha
còn một bên là Clôđiut - một kẻ sát nhân. Cả hai tuyến nhân vật này đều cùng
nhau xây dựng nên một vở kịch có kết cấu hoàn chỉnh và chặt chẽ.
Hoàng tử Hamlet là một người rất được nhân dân ái mộ, vì thế mà tên Vua gian ác không thể manh động
trên đất Đan Mạch được vì vậy y bày mưu để cho Hamlet đi sang đất Anh cát lợi
và rồi giết chàng ở đó. Sự ác độc của Clôđiut không thể nào thắng nổi trí thông
minh và niềm tin trong chàng trai trẻ Hamlet nên sau đó Hamlet đã trở về và
tiêu diệt Clôđiut.
Tính tư tưởng là biết nói những gì quan hệ đến
bản chất và tình huống của sự việc, điều này đạt được nhờ chính trị và hùng biện.
Tính cách là cái biểu hiện chiều hướng của ý chí, bởi thế những ngôn từ không
chỉ rõ cái người ta yêu thích hoặc ghét bỏ, thậm chí không hoàn toàn có cái đó,
thì đấy là thứ ngôn từ không miêu tả tính cách. Hamlet là kiểu nhân vật có ý chí, nung nấu sự
trả thù và Shakespeare đã rất tài tình khi xây dựng nhân
vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Từ những nhân vật phản diện để thấy được
sự điển hình của nhân vật chính của mình. Cũng giống như
Clôđiut, Plôniut là một viên đại thần, luôn sát cánh cùng Clôđiut trong những
mưu đồ xấu xa và cả trong những cuộc nhậu nhẹt, ăn chơi trác táng. Plôniut được
xem là bản sao của Clôđiut nên Plôniut cũng như Clôđiut đã nhúng tay vào rất
nhiều những việc xấu xa trên đời. Lợi dụng chức quyền lộng hành trong triều
đình, chia bè kéo cánh, luôn tìm cách cùng Clôđiut hãm hại hoàng tử Hamlet và y
còn mang tội ngăn cản tình yêu của con gái với Hamlet.
Từ khi xuất hiện đến khi kết thúc cuộc đời dưới lưỡi kiếm
của Hamlet thì cuộc đời của Plôniut là một cuộc đời đầy ô nhục. Hắn hiện lên là
một tên thèm khát tiền tài và quyền lực đến tột độ, cuộc đời của hắn chỉ biết đến
tiền bạc địa vị, hắn sẳn sàng đánh đổi tất cả, đánh đổi bằng cả hạnh phúc của
chính con gái mình. Plôniut vì muốn thể hiện mình là một bề tôi trung thành
cùng Clôđiut tìm cách tiêu diệt Hamlet nên đã ngăn cấm Ôphêlia đến với tình yêu
của Hamlet. Plôniut quả là một tên khốn nạn, một người cha mất hết nhân tính,
không còn tình phụ tử ở trong người.
Sau khi dùng hai người bạn của Hamlet và dùng cả Ôphêlia
để đi dò xét xem Hamlet có điên thật hay không nhưng không thành thì Plôniut đã
hiến kế cho Clôđiut bố trí cho Hamlet và mẹ được gặp và nói chuyện với để biết chính xác Hamlet có điên thật hay
không. Thế nhưng sự việc lại không diễn ra theo ý muốn của y mà trái lại
Plôniut còn bị Hamlet xuyên cho một mũi kiếm kết thúc cuộc đời ô nhục của hắn.
Dù sao thì đó cũng là một sự ban ơn của Hamlet đối với Plôniut vì nếu y sống
thêm ngày nào thì sẽ gây ra nhiều tội lỗi và sẽ lãnh một cái chết còn đau đớn
hơn bây giờ.
Thêm một nhân vật nữa góp phần quan trọng tạo nên bước
ngăn cản trong cuộc đời Hamlet là Laơctơ, con trai của Plôniut. Cùng với cha mình,
Laơctơ cũng đã ngăn cấm Ôphêlia đến với tìn yêu của Hamlet, hai nhân tố ấy đã
góp phần tạo ra cái chết bi thảm của Ôphêlia - người con gái yếu đuối, tội nghiệp.
Về cuối vở kịch, ta thấy Laơctơ là nhân vật thay mặt cho
Clôđiut và Plôniut đứng ra để ngăn cản bước tiến cuối cùng của Hamlet bằng một
cuộc đấu kiếm tay đôi với Hamlet, tuy nhiên trong việc này ta thấy Laơctơ cũng
chỉ là một con bài trong tay Clôđiut, Clôđiut muốn sử dụng Laơctơ để tiêu diệt Hamlet
bằng cách bảo Laơctơ hãy tẫm thuốc độc vào đấu mũi kiếm của mình đông thời y
cũng pha sẵn cho Hamlet một li rượu độc phòng khi Hamlet không chết bởi thanh
kiếm độc của Laơctơ thì phải chết bởi li rượu đó. Vậy mà, kịch bản lại một lần
nữa được lặp lại, giống như số phận của cha mình, Laơctơ cũng bị chết bởi chính
mũi kiếm của mình khi hai đấu thủ cướp được gươm của nhau và thế là Hamlet đã
đâm trúng Laơctơ băng chính mũi kiếm độc của hắn. Laơctơ bị Hamlet tiêu diệt.
Cũng là nhân vật được điển hình hoá đó là hoàng hậu. Mặc
dù là nạn nhân của số phận, là nạn nhân của Clôđiut nhưng bà cũng là một nhân vật
được điển hình hoá, đi ngược lại với lí tưởng của thời đại. Bà là một người vợ
không chung thuỷ với chồng, lén lút đi tìn tự với trai, có qua nhệ bất chính với
em chồng, bà đã bị mê hoặc bởi những dục vọng của đời sống, ở con người bà
không thể phân biệt được đâu là thiện, đâu là ác để rồi cùng với Clôđiut ngăn cản
bước tiến của Hamlet, gây cho Hamlet nhiều khó khăn vất vả trên đường đi.
Như vậy, ta thấy một kết cục xứng đáng đó là Clôđiut bị Hamlet
dùng kiếm độc giết chết, Plôniut thì chết bởi “cao kiến” của chính mình, Laơctơ
cũng chết vì lưỡi kiếm độc của mình, hoàng hậu bị chết bởi li rượu độc mà
Clôđiut pha dành cho Hamlet. Những cái chết đó xét cho cùng là một sự ban ơn đối
với tất cả bọ chúng.
Với nghệ thuật điển hình hoá trong cách xây dựng và thể
hiện tính cách nhân vật, Sêcxpia đã để cho Hamlet kết liễu cuộc đời của những
nhân vật độc ác, tàn bạo. Đây được xem là một dụng ý nghệ thuật to lớn của tác
giả. Từ việc thể hiện nghệ thuật điển hình hoá tác giả đã gửi gắm lí tưởng thẩm
mĩ của mình qua vở kịch và qua nhân vật Hamlet. Qua nhân vật Hamlet, chúng ta
thấy lí tưởng cao đẹp của con người được bảo vệ vẹ toàn, cái đẹp ở mỗi con người
được tôn vinh, cái xấu thì bị loại bỏ. Tuy nhiên, ta thấy ở vở kịch này, nhân vật
Hamlet – nhân vật điển hình cũng phải gánh chịu cái chết. Nhưng cái chết của Hamlet
là một cái chết cao cả, một cái chết trở thành bất tử, nó khác hoàn toàn với
cai chết của Clôđiut, của Plôniut hay Laơctơ. Hamlet chết vì sự nghiệp phục hưng
đất nước. Cái chết của chàng là do hạn chế của xã hội, thời đại Hamlet chưa chấp
nhận một lí tưởng cao đẹp như Hamlet, khuôn mẫu về con người lí tưởng chưa hình
thành ở giai đoạn đó và phải đến sau này người ta mới chấp nhận cái lí tưởng
cao đẹp đó.
Như vậy, qua việc thể hiện nghệ thuật điển hình hoá trong
cách xây dựng và thể hiện tính cách nhân vật, chúng ta thấy được bộ mặt xã hội
mà kịch của Shakespeare phản ánh. Đó là một xã hội không mấy tốt đẹp, ham quyền,
đoạt lợi, ham danh vọng để chà đạp lên con người. Tình nghĩa cha con, tình vợ
chồng, tình nghĩa ruột thịt đã tan biến để nhường chổ cho những tham vọng mới.
Đây được xem là một đóng góp sáng tạo của Shakespeare cho bi kịch của thế giới.
4.
Mối quan hệ giữa tư tưởng chủ đề
của nhân vật với văn học, xã hội phương Tây lúc bấy giờ.
Mỗi
thời đại lịch sử có một nền nghệ thuật tương xứng “xã hội thế nào thì văn nghệ
thế ấy”. Những biến động trong đời sống kinh tế chính trị thường dẫn đến những
biến đổi trong lĩnh vực văn nghệ. Hay nói cách khác mỗi sự kiện lịch sử đều có
ý nghĩa mở đầu hay kết thúc cho một giai đoạn phát triển nghệ thuật. Khi đề cập
đến nền văn học phục Hưng – nền văn học đã góp phần thanh toán thời trung cổ
phong kiến – người ra nghĩ ngay đến một nền văn học muôn màu, muôn sắc và nhà
văn là những “người khổng lồ” đã tạo nên vườn hoa muôn sắc đó. Đây là thời kì nền
văn học châu Âu bước vào một trào lưu mới với chủ nghĩa nhân văn làm nền tảng
cơ bản. Thời kì đó kéo dài trong hai thế kỉ 15 – 16, là một bước ngoặt lịch sử
với việc làm sống lại, làm mới lại một nền văn hóa đã bị “bóng ma thời trung cổ”
nhấn chìm. Ở đó, các nhà văn trở nên kiệt xuất: họ đã hòa mình vào mối quan tâm
của thời đại, tích cực tham gia đấu tranh thực tiễn. Người thì dùng lời nói và
cây bút, người thì dùng kiếm hoặc cũng có người dùng cả hai cách trên.
Thời
đại Phục Hưng đã mở ra một bước ngoặt vĩ đại với những “hình thức chói lòa của
nó đã đánh tan bóng ma thời trung cổ” làm bàn đạp tiến lên một thời kì văn minh
hơn, tiến bộ hơn. Để có những bước chuyển thần kỳ đó thì tất nhiên trong lòng
xã hội đã tích lũy đầy đủ những tiền đề xã hội nhất định. Thực ra đây chính là
buổi giao mùa giữa chế độ phong kiến sang chế độ tư bản, mặc dù sự chuyển đổi
này vẫn còn nằm trong khuôn khổ xã hội phong kiến.
Sếcxpia
sinh ở buổi giao thời giữa hai chế độ. Chế độ phong kiến trung cổ đã tàn nhưng
gốc rễ của nó vẫn bám sâu vào đời sống xã hội. Chế độ tư bản chưa được xác lập
nhưng thế lực của nó đã toả rộng đến tận các ngõ ngách của xứ sở, quốc gia…Nhà
nhân văn chủ nghĩa tiên tiến Sêcxpia, đứng về phía con người, phía nhân dân, đã
lên tiếng tố cáo mọi thế lực đen tối đó. Sêcxpia đứng trên lập trường thống nhất
quốc gia, ủng hộ nền quân chủ chuyên chế, đã lên án mọi mưu toan chia rẽ đất nước,
lôi kéo nước Anh trở về tình trạng chia cắt phong kiến ngày xưa, dìm nước Anh
trong vòng lửa máu. Lên án chế độ phong kiến dưới ngòi bút của Sêcxpia một mặt
là lên án những kẻ đại diện cho chế độ đó, mặt khác ông còn là lên án nền đạo đức,
luân lý của nó.
Trong
cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến trung cổ, Sêcxpia còn đả kích vào nền học
thuật của chế độ đó. Sêcxpia không chỉ tấn công vào chế độ phong kiến lỗi thời.
Sức sống của Sêcxpia còn mãnh liệt hơn nữa ở thiên tài “vung ngọn giáo” bóc trần
lớp sơn hào nhoáng bịp bợm của chủ nghĩa tư bản ngay từ lúc nó vừa mới ra đời.
Xuất phát từ quan niệm: “Mục đích của nghệ thuật sân khấu, trước kia cũng như
ngày nay đều thế cả, là giơ cao một tấm gương ra trước tự nhiên để phản ánh bộ
mặt thật của thời đại mình sao cho thật đúng hình dáng và đặc điểm của nó, mặt
tốt cũng như mặt xấu của nó, những đòi hỏi bức thiết của nó”. Sêcxpia đã phanh
phui ra ánh sáng một thời đại mà ông lên án là “đảo điên, tan tác”, một thế giới
mà ông tố cáo là “một thế giới nhà tù” trong đó Đan Mạch của Hamlet (ám chỉ nước
Anh của ông) là “nhà tù đen tối nhất”. Tuy nhiên, giữa thời đại đảo điên ấy,
trong cái thế giới nhà tù ấy, giữa cái xã hội nhà tù ấy, vẫn có những con người
xứng đáng với danh hiệu Con người – như Hamlet – đã dũng cảm chiến đấu để “xây
dựng lại cho nó ngay ngắn, vững vang” để giành lại Tự do và lập lại công lý, dù
biết rằng mình có thể phải hy sinh.
Thế
lực nhân vật điển hình phản diện ở trong vở bi kịch Hamlet được Shakespeare xây
dựng nên bằng hình tuợng của những nhân vật như: Clôđiut; Plôniut; Laơtơ;
Giectơrut và triều đình phong kiến suy tan lúc bấy giờ. Họ là những con người
thuộc thế lực phản diện được Shakespeare miêu tả và làm nổi bật thông qua nhân
vật điển hình chính diện Hamlet. Shakespeare xây dựng nên khối mâu thuẫn lớn
trong tác phẩm bằng sự xung đột giữa hoàng tử Hamlet - người đi đòi nợ giết cha
còn một bên là Clôđiut - một kẻ sát nhân. Cả hai tuyến nhân vật này đều cùng
nhau xây dựng nên một vở kịch có kết cấu hoàn chỉnh và chặt chẽ.
Từ
đầu đến cuối vở bi kịch, ta thấy nhân vật Clôđiut hiện lên là một tên sát nhân,
một tên dâm ô bỉ ổi, một ông vua hề, ngai vàng và địa vị, kể cả người vợ hắn
đang có trong tay đều do cướp đoạt của người khác mà có, cụ thể là y đã cướp đoạt
của anh trai mình. Giết anh trai cướp đoạt ngôi báu, dụ dỗ chị dâu tái giá sau
cái chết của anh mình chưa đầy hai tháng, đẩy người con trai độc nhất của anh
trai mình ra đường, tạo thành hai thế lực đối nghịch nhau trong triều đình...
đó là những tội ác của Clôđiut, ông vua nước Đan Mạch hiện tại. Sau khi cướp được
ngôi báu, Clôđiut thể hiện mình là một tên vua bù nhìn, ngu dốt nhưng lại ác độc.
Kéo bè kéo cánh, chia rẽ trong triều đình, trên bảo dưới không nghe. Clôđiut lại
luôn tìm cách hãm hại hoàng tử Hamlet và đồng thời tìm cách che giấu tội lôi của
mình. Hoàng tử Hamlet đã phải giả vờ điên loạn để vừa tránh khỏi con mắt dòm
ngó của triều đình, mặt khác chàng muốn ẩn mình vào bóng tối để tìm cho ra cái
chết của phụ thân mình. Thế nhưng Clôđiut vốn là một tên vua nguy hiểm, lại được
sự giúp đỡ đắc lực của tên cận thần Plôniut, y luôn luôn tìm cách loại trừ Hamlet.
Ba lần bày mưu dò hỏi xem thử Hamlet có bị điên thật hay không, thế nhưng chẳng
thu được kết quả gì lại bị mất luôn tên cận thần Plôniut. Clôđiut đâm ra hoảng
loạn. Nhận thấy sự tồn tại của Hamlet ở trong triều đình và trên đất nước Đan Mạch
như hiện tại là một mối nguy lớn thường trực và về sau nên Clôđiut quết tâm bằng
mọi cách để có thể trừ khử được Hamlet nhưng hoàng tử Hamlet là một người rất
được nhân dân ái mộ, y không thể manh động trên đất Đan Mạch được vì vậy y bày
mưu để cho Hamlet đi sang đất Anh cát lợi và rồi giết chàng ở đó. Sự ác độc của
Clôđiut không thể nào thắng nổi trí thông minh và niềm tin trong chàng trai trẻ
Hamlet nên sau đó Hamlet đã trở về và tiêu diệt Clôđiut.
Cũng
giống như Clôđiut, Plôniut là một viên đại thần, luôn sát cánh cùng Clôđiut
trong những mưu đồ xấu xa và cả trong những cuộc nhậu nhẹt, ăn chơi trác táng.
Plôniut được xem là bản sao của Clôđiut nên Plôniut cũng như Clôđiut đã nhúng
tay vào rất nhiều những việc xấu xa trên đời. Lợi dụng chức quyền lộng hành
trong triều đình, chia bè kéo cánh, luôn tìm cách cùng Clôđiut hãm hại hoàng tử
Hamlet và y còn mang tội ngăn cản tình yêu của con gái với Hamlet.
Từ
khi xuất hiện đến khi kết thúc cuộc đời dưới lưỡi kiếm của Hamlet thì cuộc đời
của Plôniut là một cuộc đời đầy ô nhục. Hắn hiện lên là một tên thèm khát tiền
tài và quyền lực đến tột độ, cuộc đời của hắn chỉ biết đến tiền bạc địa vị, hắn
sẳn sàng đánh đổi tất cả, đánh đổi bằng cả hạnh phúc của chính con gái mình.
Plôniut vì muốn thể hiện mình là một bề tôi trung thành cùng Clôđiut tìm cách
tiêu diệt Hamlet nên đã ngăn cấm Ôphêlia đến với tình yêu của Hamlet, ngăn
không cho con cái đến với nhau chỉ vì tình riêng hay nói đúng hơn là vì tiền
tài và quyền lực, tước đoạt quyền tự do yêu đương chọn lựa hạnh phúc của con
gái, đó là một việc làm không xứng đáng với cương vị của một người cha, đã
không chăm lo vun vén hạnh phúc cho con lại dang chân đạp đổ nó. Plôniut quả là
một tên khốn nạn, một người cha mất hết nhân tính, không còn tình phụ tử ở
trong người.
Sau
khi dùng hai người bạn của Hamlet và dùng cả Ôphêlia để đi dò xét xem Hamlet có
điên thật hay không nhưng không thành thì Plôniut đã hiến kế cho Clôđiut bố trí
cho Hamlet và mẹ được gặp và nói chuyện với nhau và tin rằng khi hai mẹ con nói
chuyện với nhau thì sự việc sẽ được giải bày, khi đó y đứng nấp sau rèm sẽ nghe
thấy và sẽ có kết luận chính xác về việc Hamlet có điên thật hay không. Thế
nhưng sự việc lại không diễn ra theo ý muốn của y mà trái lại Plôniut còn bị Hamlet
xuyên cho một mũi kiếm kết thúc cuộc đời ô nhục của hắn. Dù sao thì đó cũng là
một sự ban ơn của Hamlet đối với Plôniut vì nếu y sống thêm ngày nào thì sẽ gây
ra nhiều tội lỗi và sẽ lãnh một cái chết còn đau đớn hơn bây giờ.
Thêm
một nhân vật nữa góp phần quan trọng tạo nên bước ngăn cản trong cuộc đời Hamlet
là Laơctơ, con trai của Plôniut. Cùng với cha mình, Laơctơ cũng đã ngăn cấm
Ôphêlia đến với tình yêu của Hamlet, hai nhân tố ấy đã góp phần tạo ra cái chết
bi thảm của Ôphêlia - người con gái yếu đuối, tội nghiệp.
Về
cuối vở kịch, ta thấy Laơctơ là nhân vật thay mặt cho Clôđiut và Plôniut đứng
ra để ngăn cản bước tiến cuối cùng của Hamlet bằng một cuộc đấu kiếm tay đôi với
Hamlet, tuy nhiên trong việc này ta thấy Laơctơ cũng chỉ là một con bài trong
tay Clôđiut, Clôđiut muốn sử dụng Laơctơ để tiêu diệt Hamlet bằng cách bảo
Laơctơ hãy tẫm thuốc độc vào đấu mũi kiếm của mình đông thời y cũng pha sẵn cho
Hamlet một li rượu độc phòng khi Hamlet không chết bởi thanh kiếm độc của
Laơctơ thì phải chết bởi li rượu đó. Vậy mà, kịch bản lại một lần nữa được lặp
lại, giống như số phận của cha mình, Laơctơ cũng bị chết bởi chính mũi kiếm của
mình khi hai đấu thủ cướp được gươm của nhau và thế là Hamlet đã đâm trúng
Laơctơ băng chính mũi kiếm độc của hắn. Laơctơ bị Hamlet tiêu diệt.
Mặc
dù là nạn nhân của số phận, là nạn nhân của Clôđiut nhưng Giectrut cũng là một
nhân vật được điển hình hoá, đi ngược lại với lí tưởng của thời đại. Cái chết của
bà ở cuối tác phẩm do uống nhầm phải thuốc li rượu độc mà Clôđiut đã pha chế để
dành cho Hamlet có lẽ cũng là một sự ban ơn, một sự chuộc lỗi của bà đối với chồng
con. Cái chết của bà giúp Hamlet nhanh gọn kết thúc cuộc đời Clôđiut và cũng là
giúp bà không phải nhìn lại tội lỗi của mình và phải dối diện với tội lỗi của
chính mình.
Như
vậy, ta thấy một kết cục xứng đáng đó là Clôđiut bị Hamlet dùng kiếm độc giết
chết, Plôniut thì chết bởi “cao kiến” của chính mình, Laơctơ cũng chết vì lưỡi
kiếm độc của mình, hoàng hậu bị chết bởi li rượu độc mà Clôđiut pha dành cho Hamlet.
Những cái chết đó xét cho cùng là một sự ban ơn đối với tất cả bọ chúng.
Sêcxpia
đã để cho Hamlet kết liễu cuộc đời của những nhân vật độc ác, tàn bạo. Đây được
xem là một dụng ý nghệ thuật to lớn của tác giả. Qua nhân vật Hamlet, chúng ta thấy lí tưởng cao đẹp của con người được
bảo vệ vẹn toàn, cái đẹp ở mỗi con người được tôn vinh, cái xấu thì bị loại bỏ.
Tuy nhiên, ta thấy ở vở kịch này, nhân vật Hamlet – nhân vật điển hình cũng
phải gánh chịu cái chết. Nhưng cái chết của Hamlet là một cái chết cao cả, một
cái chết trở thành bất tử, nó khác hoàn toàn với cai chết của Clôđiut, của
Plôniut hay Laơctơ. Hamlet chết vì sự nghiệp phục hưng đất nước. Cái chết của
chàng là do hạn chế của xã hội, thời đại Hamlet chưa chấp nhận một lí tưởng cao
đẹp như Hamlet, khuôn mẫu về con người lí tưởng chưa hình thành ở giai đoạn đó
và phải đến sau này người ta mới chấp nhận cái lí tưởng cao đẹp đó. Qua nhân vật Hamlet chúng ta thấy được bộ mặt
xã hội mà kịch của Shakespeare phản ánh. Đó là một xã hội không mấy tốt đẹp,
ham quyền, đoạt lợi, ham danh vọng để chà đạp lên con người. Tình nghĩa cha
con, tình vợ chồng, tình nghĩa ruột thịt đã tan biến để nhường chỗ cho những
tham vọng mới. Đây được xem là một đóng góp sáng tạo của Shakespeare cho bi kịch
của thế giới.
Từ nỗi đau khổ của riêng mình,
Hamlet nhìn rộng ra xã hội và thế giới. Nỗi đau của chàng không ngừng lớn lên:
chàng đau nỗi đau chung của con người thời đại mình: một “thời đại đảo điên,
tan tác” đã biến “Đan Mạch cả chàng thành một ngục thất ghê tởm” và biến “thế
giới” thành một “nhà tù đen tối”. Những gì mà chủ nghĩa nhân văn hứa hẹn đem lại
cho con người thì giờ đây đang bị các thế lực đen tối đó chà đạp một cách không
thương tiếc. Bi kịch của ông phản ánh sự bế tắc và sự tan vỡ của chủ nghĩa nhân
văn thời Phục Hưng trước sức mạnh tàn phá của những thế lực phản nhân văn ấy.
Mặc dù là xuất thân từ trong quần
chúng lao động nhưng khi viết về vở kịch Hamlet, Shakespeare đã có cái nhìn thấu
đáo về thực trạng của một xã hội Anh. Đó có thể xem là một thời kì của xã hội
suy đồi, chuyển giao đã làm ảnh hưởng đời sống của nhân dân. Bằng tài năng sáng tạo của mình,
Shakespeare đã đã phản ánh thực trang của một xã hội lúc đó vào trong các vở kịch
của mình, nói lên những trăn trở băn khoăn về cuộc sống. Chính vì vậy Shakespeare
luôn đặt nhân vật chính của mình đi từ trong những bi kịch đau thương để vươn tới
những chân lí sáng ngời của cuộc sống. Đây chính là những tư tưởng nhân văn cao
đẹp làm nên sức sống lâu bền của sự nghiệp mà ông để lại.
Thông qua những tác phẩm kịch,
Sêcxpia đã tái hiện thành công thực trạng của bộ mặt xã hội mà ông đã chứng kiến.
Không chỉ là ở Đan Mạch (Hamlet) mà đặc biệt hơn là nước Anh trong bước giao thời
chuyển đổi, ở đó chiến tranh chấm dứt, tình trạng phong kiến cát cứ, xé lẻ bị
loại bỏ. Nước Anh đang chuyển mình mạnh mẽ để bước vào con đường phát triển Tư
bản chủ nghĩa.
Phẩm chất hiện thực nổi bật trong tác phẩm của ông dù có vay mượn đề tài từ quá
khứ hay lấy cốt truyện từ các nhà văn nước ngoài. Nghệ thuật hiện thực chân
chính bao giờ cũng hàm chứa trong nó thái độ đánh giá cuộc sống. Bằng tài năng
nghệ thuật Sêcxpia đã xây dựng, lên tiếng ca ngợi con người, cổ vũ cho cuộc sống
bình đẳng, thân ái, khẳng định lí tưởng sống tràn đầy phẩm chất nhân văn. Con
người theo ông là một kì quan của tạo hoá, một kì quan kì diệu. Nhân vật của
ông là những con người hành động luôn luôn vươn lên và bằng hành động khẳng định
phẩm chất tốt đẹp của con người.
Dẫu
thời gian có phủ mờ đi tất cả nhưng những tác phẩm kịch của Sêcxpia, đặc biệt
là về mặt nghệ thuật bi kịch của ông vẫn còn mãi với thời gian. Tất cả đều thể
hiện những lý tưởng cuộc sống tốt đẹp, vì vậy tên tuổi của Sêcxpia sống mãi
cùng với thời gian.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1.Đặng Anh Đào, Văn Học Phương
Tây, NXB Giao Dục, tái bản lần thứ 14
2. Vũ Dương Ninh, Lịch sử Văn
minh Thế giới, NXB giáo Dục VN, 2010
3. Wiliam Secxpia, Romeo và
Juliet – Hamlet – Otenlo – Macbet – Coriolan, NXB Văn Hóa, Viện Văn học, Hà Nội,
1963
7. http://doc.edu.vn/tai-lieu/luan-van-tinh-than-phuc-hung-trong-tac-pham-muoi-ngay-cua-boccacio-40280/