I.
TÁC GIẢ - TÁC PHẨM
1.
TÁC GIẢ
a.
Gia
đình và cuộc đời tác giả:
Vũ Trọng Phụng
(1912-1939) sinh ra tại Hà Nội, trong một gia đình nghèo. Ông quê ở làng Hảo (Bần
Yên Nhân), huyện Mĩ Hào, tỉnh Hưng Yên.
Cha mất sớm, nhà nghèo
gia truyền. Vũ Trọng Phụng học hết bậc tiểu học phải nghỉ, đi làm để đỡ gánh nặng
cho mẹ.
Ông chỉ được học hết
tiểu học và phải đi làm để kiếm sống. Hai lần mất việc ông chủ yếu sống bằng
nghề viết báo, viết văn. Do làm việc quá
sức, đời sống nghèo khổ, ông mắc bệnh lao, mất
ngày 13 tháng 10 năm 1939, khi mới 27 tuổi, tại Hà Nội.
b.
Sự
nghiệp văn chương:
Ông là nhà văn lao động
sáng tác không ngừng. Ông cũng là người bình dị, “người của khuôn phép nền nếp”
(Lưu Trọng Lư).
Vũ Trọng Phụng viết
báo lúc 18 tuổi. Từ 1930- 1939 ông viết cho nhiều tờ báo. Ông viết nhiều thể loại
khác nhau. Ðặc biệt là thể loại phóng sự và tiểu thuyết. Ông được tôn vinh là “ông
vua phóng sự” đất Bắc.
Ông là một nhà văn,
nhà báo nổi tiếng của Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Tuy thời gian cầm bút rất ngắn
ngủi, với tác phẩm đầu tiên là truyện ngắn “Chống nạng lên đường” đăng trên Ngọ
báo vào năm 1930, ông đã để lại một kho tác phẩm đáng kinh ngạc: hơn 30 truyện
ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch, cùng 1 bản dịch vở kịch từ
tiếng Pháp, một số bài viết phê bình, tranh luận văn học và hàng trăm bài báo
viết về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. Một số trích đoạn tác phẩm của
ông trong các tác phẩm Số đỏ và Giông Tố đã được đưa vào sách giáo khoa môn Ngữ
văn của Việt Nam.
Năm 1930, Vũ Trọng Phụng
đã có truyện ngắn đầu tay “Chống nạng lên đường” đăng trên tờ Ngọ Báo. Bắt đầu
ông viết một số truyện ngắn, nhưng không được chú ý. Năm 1931, ông viết vở kịch
“Không một tiếng vang”, thì bắt đầu gây được sự quan tâm của bạn đọc. Năm 1934,
Vũ Trọng Phụng mới cho ra mắt cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tay Dứt tình đăng
trên tờ Hải Phòng tuần báo.
Năm 1936, ngòi bút tiểu
thuyết của ông nở rộ, chỉ trong vòng một năm, bốn cuốn tiểu thuyết lần lượt xuất
hiện trên các báo, thu hút sự chú ý của công chúng. Cả bốn tiểu thuyết Giông tố,
Số đỏ, Vỡ đê và Làm đĩ đều hiện thực, đi sâu vào các vấn đề xã hội. Trong đó Số
đỏ xuất sắc hơn cả, được xem như tác phẩm lớn nhất của Vũ Trọng Phụng, một vài
nhân vật, câu nói trong Số đỏ đã đi vào ngôn ngữ đời sống hằng ngày.
Là một nhà báo, Vũ Trọng
Phụng đã viết nhiều phóng sự nổi tiếng. Với phóng sự đầu tay Cạm bẫy người
(1933) đăng báo Nhật Tân dưới bút danh Thiên Hư, Vũ Trọng Phụng đã gây được sự
chú ý của dư luận đương thời. Năm 1934, báo Nhật Tân cho đăng Kỹ nghệ lấy Tây.
Với hai phóng sự đó, Vũ Đình Chí và Vũ Bằng đã cho ông là một trong hàng vài ba
"nhà văn mở đầu cho nghề phóng sự của nước ta". Những phóng sự tiếp
theo như “Cơm thầy cơm cô”, “Lục sì” đã
góp phần tạo nên danh hiệu "ông vua phóng sự của đất Bắc" cho Vũ Trọng
Phụng.
Những tiểu thuyết và
phóng sự của ông cũng nhận được nhiều ý kiến phản bác. Từ năm 1936 đến khi Vũ
Trọng Phụng qua đời năm 1939, đã nổ ra cuộc tranh luận xung quanh vấn đề "Dâm
hay không Dâm" trong các tiểu thuyết, phóng sự của ông.
Tóm lại, Vũ Trọng Phụng
là nhà văn hiện thực xuất sắc. Vũ Trọng Phụng đã để lại những tác phẩm văn học
như một di sản văn hóa. Tác phẩm của ông là một kho tàng phong phú.
2.
TÁC PHẨM
Số đỏ là một tiểu thuyết văn học của nhà văn Vũ Trọng Phụng, đăng ở Hà Nội
báo từ số 40 ngày 7 tháng 10 1936 và được in thành sách lần đầu vào năm 1938. Nhiều nhân vật và câu nói trong tác phẩm đã đi vào cuộc sống đời thường và tác phẩm đã được dựng thành kịch, phim. Nhân vật chính của Số
đỏ là Xuân - biệt danh là
Xuân Tóc đỏ, từ chỗ là một kẻ bị coi là hạ lưu, bỗng nhảy lên tầng lớp danh
giá của xã hội nhờ trào lưu Âu hóa của giới tiểu tư sản Hà Nội khi đó.
Tác phẩm Số đỏ, cũng như
các tác phẩm khác của Vũ Trọng Phụng đã từng bị cấm lưu hành tại Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa trước năm 1975 cũng như tại Việt Nam thống nhất cho đến năm
1986.
Truyện dài 20 chương và được bắt đầu khi bà Phó Đoan đến chơi
ở sân quần
vợt nơi Xuân tóc đỏ làm việc. Vô tình Xuân tóc đỏ vì xem trộm 1
cô đầm thay đồ nên bịcảnh sát bắt giam và được
bà Phó Đoan bảo lãnh. Sau đó, bà Phó Đoan giới thiệu Xuân đến làm việc ở tiệm
may Âu Hóa, từ đó Xuân bắt đầu tham gia vào việc cải cách xã hội. Nhờ thuộc lòng
những bài quảng cáo thuốc lậu, hắn được vợ chồng Văn Minh gọi là "sinh
viên trường thuốc", "đốc tờ Xuân". Hắn gia nhập xã hội thượng
lưu, quen với những người giàu và có thế lực, quyến rũ được cô Tuyết và phát hiện
cô Hoàng Hôn ngoại tình. Xuân còn được bà Phó đoan nhờ dạy dỗ cậu Phước, được
nhà sư Tăng Phú mời làm cố vấn cho báo Gõ Mõ. Vì vô tình, hắn gây ra cái chết
cho cụ cố tổ nên được mọi người mang ơn. Văn Minh vì nghĩ ơn của Xuân nên dẫn
Xuân đi xóa bỏ lí lịch trước kia rồi đăng kí đi tranh giải quần vợt nhân dịp vua Xiêm đến Bắc Kì. Bằng thủ đoạn xảo
trá, hắn làm 2 vận động viên quán quân bị bắt ngay trước hôm thi đấu nên Xuân
được dịp thi tài với quán quân Xiêm. Vì để giữ tỉnh giao hảo, hắn được lệnh phải
thua. Kết thúc trận đấu, khi bị đám đông phản đối, Xuân hùng hồn diễn thuyết
cho đám đông dân chúng hiểu hành động "hi sinh vì tổ quốc của mình",
được mời vào hội Khai trí tiến đức, được nhận huân chương Bắc Đẩu bội tinh và cuối cùng trở thành con rể cụ cố Hồng.
Vũ
Trọng Phụng đã quan sát xã hội thực dân nửa phong kiến vô nhân đạo và phản ứng
gay gắt với lối sống Âu hóa rởm đầy lố lăng, kệch cỡm diễn ra lúc bấy giờ, ông
tập trung phản ánh xã hội thối nát, nhố nhăng, giả dối một cách sâu sắc, quyết
liệt. Đọc tiểu thuyết “Số đỏ” chẳng hạn, chúng ta không chỉ phục tài của Vũ Trọng
Phụng mà còn trân trọng biết bao tinh thần phản kháng quyết liệt của ông với xã
hội đương thời.
Xung
quanh tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng có nhiều ý kiến không thống nhất về tư
tưởng nghệ thuật của nhà văn và đã gây nên những cuộc tranh luận, bút chiến sôi
nổi. Mặc dù các nhà phê bình không thống nhất được về tiếng cười của Vũ Trọng
Phụng nhưng không ai có thể phủ nhận được tiểu thuyết Số đỏ là một trong những
tiểu thuyết trào phúng xuất sắc nhất của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945.Thông qua tác phẩm này
“nhà văn đả kích sâu cay cái xã hội tư sản thành thị đang chạy theo lối sống nhố
nhăng đồi bại đương thời”. Dùng tiếng cười để làm vũ khí, tác phẩm vạch trần thực
chất sự thối nát của các phong trào “âu hóa”, “vui vẻ trẻ trung”,… được bọn thống
trị khuyến khích và lợi dụng.
II.
“SỐ ĐỎ” CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG – MỘT HIỆN TƯỢNG VĂN HỌC
ĐỘC ĐÁO
1.
NỘI DUNG
a.
Đề tài trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
Đề tài, thuật ngữ chỉ phạm vi các sự kiện
tạo nên cơ sở chất liệu đời sống của tác phẩm đồng thời gắn liền với việc xác lập
chủ đề của tác phẩm. Đề tài là cơ sở để nhà văn khái quát những chủ đề và xây dựng
những hình tượng, những tính cách điển hình.
Bằng ngòi bút trào phúng độc đáo, Số đỏ
lên án gay gắt cái xã hội tư sản thành thị Việt Nam đang chạy theo lối “văn
minh rởm” hết sức lố lăng đồi bại đương thời. Nói như Lưu Trọng Lư , ngòi bút Vũ Trọng Phụng đã “ chế nhạo
tất cả những cái rởm cái xấu cái bần tiện cái đồi bại của một hạng người một thời
đại”. Vũ Trọng Phụng đã đả kích sâu độc các phong trào “Âu hóa” , “thể
thao”, “giải bóng chuyền nữ” đang rầm rộ phát triển khi ấy. Nhân danh “văn
mình”, “tiến bộ”, “cải cách xã hội” mà thực chất chỉ là ăn chơi trụy lạc, làm
tiền đề chà đạp lên mọi nền đạo đức truyền thống. Số đỏ cũng phơi trần bộ mặt
trơ trẽn của bọn người trưởng giả, phè phỡn, đã chạy theo phong trào bình dân
như một cái “mốt” khi đó. Ngòi bút châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng cũng
không quên đề cập đến phong trào “thơ mới” lãng mạn, khuynh hướng nghệ thuật
“hũ nút”, tới những tổ chức do thực dân đỡ đầu như Hội Chấn hung Phật giáo, Hội
Khai trí tiến đức, tới cả bộ máy chính quyền thực dân, từ đám cảnh sát đến Phủ
Toàn quyền, Thống sứ, vua ta, vua Xiêm cũng bị đưa lên cái sân khấu trò hề Số đỏ.
Do đó, Số đỏ tuy chỉ tập trung phê phán xã hội tư sản về phương tiện đạo đức,
sinh hoạt trong tác phẩm vẫn có màu sắc thời sự rõ rệt. Số đỏ đã đưa ra một loạt
chân dung biếm họa rất mực sinh động về gần đủ loại nhân vật tiêu biểu cho cái
xã hội nhố nhăng đó: từ mụ me Tây đĩ thỏa dơ dáng đến cô “gái mới” lãng mạn hư
hỏng một cách có lý luận; từ một ông chủ tiệm may làm “cách mệnh trong vòng
pháp luật” bằng những mốt y phục phụ nữ tối tân đến các nhà mĩ thuật hang hái cổ
động Âu hóa song cấm ngặt vợ con mặc tân thời; từ cụ cố Hồng hiếu danh hũ lậu
và đần độn đến ông Victo Ban – chủ khách sạn Bồng Lai kiêm vua thuốc lậu; từ đốc
tờ Trực Ngôn đồ đệ Frơt đến nhà cách mạng bảo hoàng Jôzep Thiết, từ bọn lang
băm đến giới cảnh sát; từ nhà sư hổ mang cổ động chấn hưng đạo Phật đến đại diện
Hội Khai trí tiến đức vốn quý phái song “vẫn gá tổ tôm một cách bình dân”!...
Không phải do “Số đỏ” mà cái chính xã
hội trưởng giả trụy lạc và bọn bịp bợm ấy đã tạo nên một Xuân Tóc Đỏ, “người
hùng” của nó.
b.
Chủ đề trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
Chủ đề là vấn đề được đặt ra trong tác
phẩm và được hình thành trên cơ sở đề tài. Chủ đề chính là tư tưởng chủ đạo của
tác phẩm; là góc độ, bình diện, con đường để tác giả đưa dắt người đọc thâm nhập
vào tác phẩm. Tác phẩm văn học có thể gồm một hoặc nhiều chủ đề. Từ đề tài, Số
đỏ tập trung vào ba chủ đề: chủ đề về tệ nạn xã hội, chủ đề về đạo đức và chủ đề
cái dâm và sự tha hóa.
v Chủ đề về tệ nạn
xã hội
Số
đỏ một hành trình đi đến
mộ của nhân loại. Nhận ra được tệ nạn của xã hội đương thời nên dù đứng ở góc độ
nào: xã hội, chính trị, tâm lý, hài hước,… thì Vũ Trọng Phụng đề hướng vào kẻ
thù của dân tộc. Đó là bọn thực dân, địa chủ phong kiến, tư sản mại bản. Chúng
cấu kết trong guồng máy chính trị xã hội đương thời để ra sức bóc lột, đàn áp,
thực hiện chính sách ngu dân, bần cùng, trụy lạc hóa nhân dân. Ông đã mạnh tay
lôi ra ánh sáng bộ mặt xấu xa, dâm đãng, bỉ ối, độc ác dẫu chúng che giấu một
cách khôn khéo, quỷ thuật, đánh bóng mạ vàng bởi những phong trào, những hoạt động
dưới danh nghĩa văn minh, âu hóa, tiến bộ… Âm mưu đó đã làm cho tầng lớp thanh
niên lúc bấy giờ sa chân vào trụy lạc mà quên đi lòng yêu nước thương nòi. Những
sân quần vợt, tiệm may Âu hóa của vợ chồng Văn Minh, khách sạn Bồng Lai là những
minh chứng.
v Chủ đề về đạo đức
Đạo đức chính là thước đo nhân cách con
người, là cầu nối con người với nhau. Vậy mà trong Số đỏ, ta thấy hiện lên những
điều đau lòng mà đạo đức không thể chấp nhận được. Có gia đình nào mà lại đi
trông chờ từng ngày người thân của mình rời xa cõi đời để mà sung sướng tổ chức
đám tang, thỏa mãn sở thích tầm thường của mình? Vậy mà gia đình của cụ cố Hồng
lại là một điển hình cho sự tha hóa về mặt đạo đức. Đạo đức của gia đình cho
phép họ thay vì mời bác sỹ đến cứu chữa bệnh cho cụ cố tổ lại mời hai ông lang
băm thăm bệnh cho cụ. Tác giả đả kích phong trào “Âu hóa”, “thể thao”, “cải
cách xã hội” mà thực chất chỉ là ăn chơi trụy lạc, chà đạo trắng trợn lên mọi
giá trị đạo đức truyền thống. Đạo đức quả là xa xỉ, ngay cả những người mang dấu
ấn của tâm linh, những tăng ni phật tử, nay cũng lăn lộn ở đời, eo sèo tranh chấp
nhau về quyền lợi. Sư mà đi hát cô đầu, lại còn biện minh cho mình đó là “di dưỡng
về mặt tinh thần vì thuộc kinh nhạc trong Tứ Thư Ngũ kinh của đức Khổng”. Lại
còn to tiếng bảo mình không phạm sắc giới vì “không khi nào ngủ lại đêm ở nhà
chị em cả”…
v Chủ đề về cái
dâm và sự tha hóa nhân cách
Cái nhìn độc đáo của Vũ Trọng Phụng gây
dị ứng mạnh mẽ ở chỗ ông nhìn đâu cũng thấy cái
dâm của loài người. Trước hết là cái tính dâm dật của bà Phó Đoan, được
miêu tả qua lai lịch của bà: Từ khi bị người lính Tây hiếp – sau này trở thành
ông Phó Đoan – sau đó được 10 năm ông Phó Đoan chết vì “yêu vợ quá sức”; tiếp
theo bà lấy một ông phán trẻ được hai năm thì ông chồng cũng lăn cổ ra chết.
“Bà chính chuyên đến nỗi chồng bà kiệt sức, cạn lực, phải trốn xuống suối
vàng”. Một người đàn bà đại dâm khiến cho hai người chồng phái chết vì “kiệt sức”.
Nhưng cái tính dâm dục của bà đã chảy trong máu, khi nghe tin Xuân vì nhìn trộm
một cô đầm thay quần áo – vì cái tính dâm đãng của Xuân mà bà đã nảy sinh cái
“lòng thương người” đưa về nhà mình. Và cái thú ấy được thể hiện khi nghe Xuân
giảng giải rằng Xuân không nhìn trộm mà chỉ đang bịt một cái lỗ ống chì trong
buồng tắm của hội viên thì “bà Phó Đoan đứng ngẩn người ra, nuốt sự thất vọng
đánh ực một cái”. Hay tính dâm đãng của Xuân chẳng kém bà Phó Đoan là bao. Đoạn
Tuyết và Xuân đang tỏ tình với nhau trong phòng khách nhà bà Phó Đoan khiến bà
sừng sộ làm Tuyết hổ thẹn ra về. Xuân đang tức giận nhưng thấy bà Phó Đoan
trong y phục mỏng manh thì cái tính ấy lại nổi lên. Tạo nên một cuộc dâm ô khó
mà chấp nhận.
Bên cạnh sự dâm đãng, Vũ Trọng Phụng còn
viết về sự tha hóa nhân cách của con người trong môi trường tiền bạc, tham
nhũng. Hạnh phúc của một tang gia như một bản cáo trạng cho xã hội tư sản phù
khiếm. Ở đó con người chỉ còn cơ mưu và thủ đoạn. Đám tang mà chỉ thấy tất cả đều
hả hê, vui sướng nhưng gặp đại phúc. Đối với họ “hấp hối não lòng hơn tắt thở”
nên từ trên xuống dưới đều mong sự ra đi sớm của cụ cố tổ. Cụ cố Hồng muốn cụ cố
tổ chết đi để khoe cái danh dự của mình, là con trai cả đã lớn và được tổ chức
một đám tang linh đình để khoa mã bề ngoài, còn Tuyết thì muốn mặc bộ đồ lễ
tang tân thời, cậu Tú Tân thì chỉ muốn sử dụng cái máy ảnh của mình… Cái xã hội
Việt Nam đương thời với những con người dường như dần tha hóa, cái cuộc đi đưa
tang cụ cố tổ chẳng khác nào đi đến cái tận thế biến chất của xã hội. Cảnh đám
tang như một biểu hiện rõ nét về sự tha hóa nhân cách của một gia đình đại bất
hiếu.
c.
Đối tượng trong Số đỏ
Với tư duy khái quát và óc đầy sự tưởng
tượng, Vũ Trọng Phụng đã sáng tạo ra trong tác phẩm một thế giới hình tượng có
sức tổng hợp mảng đời sống hết sức rộng lớn. Dưới mắt ông, đời là một tấn hài kịch
mà kẻ đạo diễn chính là số mệnh-chính cái số mệnh đã “đạo diễn” cho tất cả nên
bất kỳ ai cũng thành diễn viên hề, dù họ ở bất cứ vị trí nào trong xã hội. Thế
nên, đối tượng được tác giả nói đến trong Số
đỏ là toàn bộ xã hội tư sản thành thị láo nháo buổi Âu hóa. Ở đó, không chỉ
có một cá nhân làm trò mà dường như tất
cả đều biến thành con múa rối quay cuồng một cách vô nghĩa lý dưới sự giật dây
của số mệnh. Đối tượng phản ánh trong Số
đỏ sẽ còn là cái vô nghĩa lý – sự đảo ngược, lộn ngược các giá trị thông
thường, và trong Số đỏ, cái được xem
là logic là thông thường thì bị đảo ngược tất cả.
Trước hết, từ những con người với những
tính cách vô nghĩa lý: tỏ ra vẻ ngoài có nhân cách, nhưng thật chất không có
nhân cách gì; có sự khoe khoang vô nghĩa lý như cái khóc trong đám tang của cụ
cố tổ vậy; những thói tật vô nghĩa lý..Sau đó là những tấn trò hài kịch đạo đức
ở đời..tất cả mỗi người với tính cách đó đã làm nên xã hội vô nghĩa lý, bị tha
hóa, bị lai căng.
Từ nhân vật Xuân tóc đỏ, một hình thức
lai căng điển hình: bởi người Việt lẫn người da vàng xưa nay tóc không đỏ. Xuân
giải thích về mái tóc : “Mẹ kiếp! chứ xưa nay có mua mũ bao giờ mà tóc chả đỏ”-
một giải thích tầm phào lấy lệ vì chính hắn là biểu hiện cho lai căng bấy giờ một
cách lộ liễu nhất, sớm nhất từ 1936, xóa bỏ căn cước, xóa bỏ bản thể của chính
mình.
Những chữ: em chã em chã được ông đưa vào miệng cậu Phước, con trai bà Phó
Đoan, một bà me Tây có hình dáng tú bà còn nói lên thực tế con người. Chính hắn
là lai căng thánh thể, với những từ thánh :em
chã em chã , là hiện tượng đồng cô cậu bóng, hiện tượng lai căng bình dân
nhất.
So với Nguyễn Công Hoan, người tiếp nối
Tú Xương, Nguyễn Khuyến, ông cũng nhìn đời như một tấn tuồng, nhưng với Nguyễn
Công Hoan, đời ở đây là xã hội thời Tây lố lăng, nhân vật diễn trò là con đẻ của
thời đại (bọn có tiền, có quyền phất lên từ chế độ thực dân, những nam nữ thanh
niên Âu hóa). Với Nguyễn Công Hoan ông đứng trên lập trường phong kiến để phê
phán điều trái đạo lí phong kiến, ông lên án đồng tiền với sự thắng thế cùng với
một lối sống mới. Điều này ắt hẳn trùng với Vũ Trọng Phụng, tuy nhiên đối tượng
mà Vũ Trọng Phụng miêu tả lại thực hơn bao giờ hết –đó là nam thanh nữ tú của
chính xã hội Việt Nam tuy nhiên lai căng, tha hóa hẳn ngay từ đầu, thể hiện
trong hành động, cư xử “vô nghĩa lý” như là tính cách bản thể vốn có của mình.
Từ đó, khái quát hơn nữa, đối tượng mà ông mỉa mai là cả một xã hội ai cũng như
ai, đạo đức và tình nghĩa không còn hiện diện trong con người. Đối tượng rộng
khắp như vậy mang tính bao quát, đẩy lên cao trào bi kịch – cả một xã hội Việt
Nam bấy giờ ai cũng như ai, ai cũng là hiện thân của các diễn viên hề trong Số đỏ.
2.
NGHỆ THUẬT
Trào phúng là nghệ thuật gây ra tiếng cười mang
ý nghĩa phê phán xã hội. Để gây được tiếng cười trào phúng, điều quan trọng nhất
là tạo được tình huống mâu thuẫn và tổ chức truyện làm nổi bật mâu thuẫn.
Trào
phúng gắn bó mật thiết với phạm trù cái hài, mà các cung bậc tiếng cười, hình
thức thể hiện và nội dung của cái hài thì rất đa dạng và phức tạp. Trào phúng
và cái hài đều gây cười, và ngay trong việc nhà văn thể hiện thái độ trào phúng
đối với hiện thực đã chứa đựng yếu tố hài. Nhưng giữa cái hài và yếu tố hài
trong nghệ thuật trào phúng có sự khác nhau về thái độ, sắc thái và giọng điệu
phê phán đối với đối tượng. Văn học trào phúng thường xây dựng hình tượng phủ định
để tạo nên tiếng cười với mục đích châm biếm, mỉa mai và đả kích xã hội đương
thời. Nghệ thuật trào phúng là một phương pháp bộc lộ những sai lầm của đối tượng
và chỉnh sửa nó một cách sinh động, hấp dẫn, cũng có ít nhiều gây được lòng
khinh ghét chứ không phải chỉ gây cười dễ dãi. Hơn nữa nếu nghệ thuật trào
phúng chứa đựng những bài học ý nghĩa triết lý sâu sắc trong tiếng cười thì giá
trị càng lớn hơn. Và nghệ thuật trào phúng trong “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng được
thể hiện nổi bật qua các phương diện sau:
a.
Xây dựng nhân vật trào phúng điển hình
Vũ Trọng Phụng có thể xem như một cách chim đơn độc
trên bầu trời văn chương thế kỉ XX. Ông phiêu bạt và ghi dấu ấn của mình trên
văn đàn Việt Nam giai đoạn 1930 -1945 với những tác phẩm bất hủ: Số đỏ, Kỹ nghệ lấy Tây... gắn liền với
tên tuổi ông. Trên khoảng trời riêng của mình, Vũ Trọng Phụng đã thể hiện một
quan điểm nghệ thuật rất riêng đã làm nên một phong cách trào phúng, mỉa may
sâu cay và thật chua chát như những tiếng thở dài giữa thế kỉ của mất mát và
đau thương. Khi những giá trị truyền thống tốt đẹp dần bị mai một, khi thói học
đòi Âu hóa lan rộng trong cái xã hội thực dân tàn bạo thì cũng là lúc ngòi bút
Vũ Trọng Phụng gióng lên nhưng hồi chuông cảnh tỉnh cái lương tri của cả một
dân tộc Việt Nam. Có thể nói cái tài, cái thần của Vũ Trọng Phụng chính là nghệ
thuật khắc họa hình tượng nhân vật. Nhân vật trong tiểu thuyết của ông sống động,
rất "đời" và rất thực. Các nhân vật được xây dựng dựa trên những
khuôn đúc của thời đại, dưới bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ đã hiện lên thật
điển hình, cái điển hình của một kiểu người, điển hình của một dạng người trong
xã hội đương thời.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình của Vũ Trọng
Phụng trước hết có thể nói là dựa hoàn toàn trên chất liệu của thời đại. Nhân vật
được xem là con đẻ của thời đại nhiễu nhương, thực dân và phong kiến thối nát
thẳng tay đàn áp nhân dân, dìm dân tộc trong bể khổ và đầu độc tầng lớp trí thức
đương thời. Trong một xã hội khi mà chính quyền thực dân thi hành những chính
sách ngu dân, khuyến khích lối sống và tư tưởng phương Tây tràn ngập nơi thành
thị thì những số phận điển hình ra đời. Vì đâu mà chúng ta tri nhận được một
hình hài như Xuân Tóc Đỏ, như một mụ Phó Đoan, như đôi vợ chồng Văn Minh và còn
nhiều kẻ khác nữa? Đó chính là những hoàn cảnh điển hình đã xây dựng nên các
nhân vật mang tính chất điển hình. Mô hình này có sự tác động qua lại với nhau
và được thể hiện thông qua quá trình phát triển tác phẩm. Tựu trung lại thì những
yếu tố ngoại cảnh có vai trò quan trọng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật và
thể hiện tính cách nhân vật. Bối cảnh xã hội trong tiểu thuyết Số đỏ chính là yếu
tố đầu tiên định hình nên khuôn mẫu của nhân vật trong thời đại đó. Xã hội
trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng được tái hiện dưới một bầu không khí ngột ngạt,
đậm đặc chất thống trị và đầy rẫy sự cám dỗ, tha hóa. Chính bối cảnh xã hội đó
đã tách biệt các nhân vật ra khỏi hình tượng nhân vật giai đoan trung - cận đại
và phát triển theo một chiều hướng hiện đại hơn, chân thật hơn. Nhân vật trở
thành đối tượng để tác giả bộc lộ quan điểm nhân sinh của mình và mang trong
chính mình một cái vỏ tính cách của thời đại mình đang sống. Một thời đại điển
hình sẽ sản sinh ra những nhân vật điển hình. Và những nhân vật trong Số Đỏ
cũng như vậy. Nhân vật sống trong nỗi đau chung của thời đại và trở thành những
sản phẩm lỗi, những hình hài đáng sợ cho một giai đoạn đầy biến động của lịch sử
văn học Việt Nam.
Giai cấp thống trị mang tính chất độc tài, thối nát
và hèn hạ chính là một yếu tố quan trọng bao trùm và tác động lên mọi giai tầng
xã hội trong tiểu thuyết Số Đỏ. Bóng dáng thực dân phong kiến có mặt ở khắp
nơi, len lỏi vào mọi ngóc ngách của đời sống con người. Xuân Tóc đỏ với vị trí
nhặt ban quần hèn mọn, tiêu biểu cho một tầng lớp tiểu thị dân trong giai đoan
nhiễu nhương đương thời. Bà phó Đoan dựa hơi lấy Tây để rồi được các chính quyền
rởm phong cho cái danh hiệu cũng rởm không kém là Tiết hạnh khả phong. Gia đình
cụ cố Hồng thì kẻ ảnh hưởng Âu hóa, người thì đua đòi và vứt bỏ đi những nét đẹp
đang quý của truyền thống văn hóa dân tộc. Tất cả những bi kịch trên đều phát
xuất từ một xã hội điển hình: xã hội thực dân phong kiến giai đoạn 1930 - 1945.
Xã hội ấy bao bọc và kiềm tỏa con người, nó làm cho những con người ấy mụ mị, u
mê và trở nên xa rời văn hóa truyền thống của dân tộc. Những biểu hiện đáng lên
án ấy đã được Vũ Trọng Phụng khắc họa bằng ngòi bút sắc sảo và tràn đầy tính
trào phúng và mỉa mai. Song song với quá trình xây dựng một bầu không khí điển
hình, một xã hội điển hình chính là quá trình tạo dựng những kiểu loại nhân vật
điển hình. Đó chính là những lớp người tiêu biểu để Vũ Trọng Phụng thể hiện
ngòi bút châm biếm và phê phán của mình dưới vỏ bọc văn chương. Nhân vật mang
tính chất điển hình nhất mà nhà văn xây dựng trong tác phẩm chính là Xuân Tóc Đỏ,
một kiểu người tiêu biều cho xã hội thực dân giai đoạn 1930 - 1945.
Xuân hiện lên như một nhân vật ở trung tâm của bức
tranh xã hội đương thời. Người ta thấy ở Xuân mọi yếu tố của một kẻ đầu đường
xó chợ, phải lây lắt kiếm ăn qua ngày. Xuân có xuất thân không mấy cao đẹp, bị
bắt vì một tình cảnh không mấy văn minh ở ngay đầu truyện. Điều này cho ta thấy
cái nhìn khái quát nhất cho một kiểu người bơ vơ, bị xã hội tha hóa đến mức độ
nào. Chính cái hoàn cảnh ngột ngạt của xạ hội đã tác động và bóp méo nhân cách
của Xuân khiến y trỏ thành một kẻ xấu xa ngay từ rất sớm. Y tiêm nhiểm thói lẻo
mép, giả tạo và cơ hội từ chính cái thực tại cuộc sống đã sinh ra y và rồi
chính y đã sử dụng nó làm phương tiện để thăng tiến cho cuộc đời y. Xuân trở
thành một trí thức rởm qua sự thêu dệt của những kẻ xu nịnh y, y trở thành sinh
viên trường thuốc, đốc - tờ Xuân, giáo sư quần vợt rồi đến vĩ nhân cứu quốc. Tất
cả danh hiệu của y đều xuất phát từ những lời tâng bốc giả tạo và vô liêm sỉ.
Đây chính là một kiểu người điển hình cho xã hội bấy giờ. Trong cái bối cảnh loạn
lạc lắm bão giông ấy thì Xuân đã ra đời như một thước đo sự tha hóa của con người.
Y chính là kết quả sau cùng của cuộc thí nghiệm mang tên Số đỏ mà chất xúc tác
chính là bối cảnh xã hội đầy rẫy những tạp chất mang tên độc tố. Nọc độc của thời
đại đã thấm nhuần vào huyết quản của y, nó khiến y hành động như một kẻ điên rồ
với tham vọng thể hiện và muốn được công nhận như bao quý ông thành đạt. Con đường
mà Xuân đã đi cũng là con đường mà không ít những tên cơ hội, bẻm mép đã đi và
khốn nạn thay chúng đã thành công. Chúng thâm nhập sâu vào những đầu não của
chính quyền, chúng đầu độc nhân dân bằng những lý thyết u mê và làm tê liệt sức
phản kháng, đấu tranh của quần chúng. Chúng đã tạo ra một thế hệ tay say u mê
và ngu độn như chúng, mờ mắt trước các thế lực của đồng tiền và sẵn sàng chà đạp
lên lương tâm của mình nhằm đạt được mục đích. Những hành động đớn hèn của Xuân
đã bộc lộ bản chất của con người y: tham lam, đểu cáng, ngu dốt và thích lợi dụng
tình thế hòng đoạt lợi cho bản thân. Y sàm sỡ mụ Phó Đoan, cô Tuyết và giở trò
đồi bại với sự bệnh hoạn đầy đê tiện. Y không ngại phô bày bản chất xấu xa của
mình và luôn gặp may khi che dấu được hành động đê tiện của y. Phải chăng chính
cái xã hội đương thời thối nát đã bao che, dung túng y và khiến ý tác oai tác
oái đến như vậy. Những kẻ đểu giả ấy hiện lên thật sinh động thông qua biệt tài
xây dựng nhân vật của Vũ Trọng Phụng. Ông đã rút tỉa từ cái xã hội đương thời đầy
biến động và đan cài những lớp người tiêu biểu vào nhau để quy về mẫu số chung
là hình tượng Xuân Tóc Đỏ. Đê tiện trong hành động, đê tiện trong tính cách và
đê tiện như bao kẻ tà gian đương thời. Nhân dạng và cái tên của Xuân đã trở
thành một hình tượng trào lộng kiệt xuất, trở thành một mệnh đề bất biến cho một
kiểu người đương thời với thói cơ hội và còn mãi đến hôm nay như một thước đo
chuẩn mực về tính cách thời đại.
Kiểu nhân vật điển hình tiếp theo mà Vũ Trọng Phụng
muốn xây dựng cũng độc đáo không kém hình tượng Xuân Tóc Đỏ. Đó chính là kiểu
nhân vật chỉ có trong văn học giai đoạn này. Đó chính là hình tượng những me
tây mà tiêu biểu là bà Phó Đoan. Mụ Phó Đoan được xây dựng với một tính cách điển
hình mà nhà văn đã không ngần ngại phê phán là dâm đãng, lẳng lơ. Cơ duyên trở
thành me tây của mụ cũng mang tính hài hước và giàu tính châm biếm, bị hiếp rồi
được gá nghĩa với quan Tây. Mụ giải cứu Xuân khỏi rắc rối cũng chỉ vì muốn Xuân
phục vụ cho nhu cầu ái tình của mụ, bất chấp tuổi tác hai người đã quá chênh lệch
nhau. Sự hư hỏng và ngu dốt của mụ còn thể hiện trong chi tiết đòi được Xuân
phong danh hiệu " Tiết hạnh khả phong". Quả là một màn hài kịch ê chề
khi nhà văn gán ghép cái danh hiệu có phần " tréo ngoe" cho một người
đàn bà lẳng lơ và trắc nết. Đâu đó trong bóng dáng bà Phó Đoan ta còn bắt gặp
những niềm day dứt, đớn đau của một dân tộc khi những người đàn bà phải "
làm đĩ" trở thành món hàng trong tay bọn thực dân phương Tây. Vũ Trọng Phụng
đã đau cái nỗi đau của một dân tộc mất nước và bất lực khi những giá trị truyền
thống, trung trinh tiết liệt bị đạp đổ không thương tiết trước cái văn minh rởm
của bọn thực dân.
Bên cạnh đó những nhân vật trong gia đình cụ cố Hồng
cũng là tiêu biểu cho những tế bào xã hội bị nhiễm độc của thế kỉ XX. Khi những
con người trẻ, những thế hệ tương lai trong một gia đình trở nên hư hỏng, sa đọa
như cô Tuyết thì thử hỏi truyền thống gia đình, kính trên nhường dưới đâu còn
giá trị gì. Nhân vật Tuyết được xây dựng là con út trong gia đình với bản tính
đua đòi và trắc nết, cô yêu Xuân vì cho rằng cái vẻ ngoài hào nhoáng của Xuân
đích thị là anh chàng sành điệu chính hiệu, một dạng người yêu rất hợp thời mà
các cô gái trẻ phải ao ước. Chính thói đua đòi và tiếp thu văn minh phương Tây
dưới một bộ lọc sai lầm đã để lại trong tâm hồn nhân vật Tuyết những vết gợn
nhơ nhớp khốn cùng. Cô nàng tự hào với cái danh " Bán xử nữ" của mình
và ép Xuân phải thất thân với mình hòng được đi đến một đám cưới. Thói đời thật
đảo điên dưới con mắt tinh đời của Vũ Trọng Phụng đã được thể hiện trên trang
văn một nhân vật thật sống động và điển hình cho tầng lớp thanh niên tha hóa thời
bấy giờ. Họ chạy theo thời thế một cách ngu muội, bỏ quên nhữn giá trị cốt lõi
đã làm nên nét văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Thật đáng trách biết bao. Những
thành viên trong gia đình cụ cố Hồng đều là những kẻ ngu muội và đốn mạt từ
trên xuống dưới. Cụ cố Hồng là ví dụ điển hình cho tình trạng "nhà dột từ
nóc", cụ hám danh, hám tiền và hám thói sính lễ nghĩa, thói khoe khang và
sĩ diện hảo của thời đại trước. Những mầm độc dược ấp ủ từ lâu trong tâm can
con người nay được dịp bộc lộ trong thời đại này như cá gặp nước. Mầm độc được
dịp phát tác và kéo theo những thế hệ di căn tiếp theo vốn thối nát ngay tử gốc
rễ chính là vấn đề nhức nhối còn tồn đọng đến hôm nay. Từ cụ cố Hồng đến đôi vợ
chồng Văn Minh sính ngoại và cả những nhân vật ông Phán " mọc sừng" đều
là những mầm độc cần phải giải trừ. Học đã trở thành những biểu tượng điển hình
cho một thế hệ ung nhọt và tha hóa đến cùng cực cần phải thanh trừng nhằm trả lại
cho xã hội sự trong sạch cần có. đâu là giải pháp của Vũ Trọng Phụng khi ông
xây dựng nên những con người điển hình này? Ông muốn chúng ta đấu tranh, đấu
tranh dẫu cho cái xã hội này vẫn còn những tầng lớp tha hóa như cảnh sát, sư
sãi và chính quyền suy đồi nhưng nhen nhóm nơi ấy vẫn là những hy vọng về một
tương lai tốt đẹp hơn.
Hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết Số Đỏ đã trở
thành những biểu trưng cho tính cách con người những năm giữa thế kỉ XX và đã
là tiêu biểu cho ngòi bút phê phán của Vũ Trọng Phụng. Toàn bộ tác phẩm là bản
cáo trạng đanh thép cho chính một xã hội nhiễu nhương đã đẩy con người đến bờ vực
tha hóa như bao bóng ma vật vờ suốt hình hài đau thương của một Việt Nam những
năm trước cách mạng.
b.
Xây dựng tình huống trào phúng độc đáo
Tình
huống: là cái “khoảnh khắc cốt yếu”, khi nhân vật
đặt trong hoàn cảnh đó, nhất định phải bộc lộ tính cách chủ yếu của mình, tính
cách ấy chi phối cách sống, cách nghĩ, cách ứng xử, đường đi nước bước và cả số
phận của cuộc đời mình.
Văn
học hiện thực phê phán rất quan tâm đến mối quan hệ giữa hoàn cảnh điển hình
trong tiểu thuyết với những sự kiện tương ứng của đời sống thực tại. Hoàn cảnh
điển hình chính là cái “thời sự đã kết đọng thành tâm tính, thành tâm trạng phẫn
uất mãnh liệt của nhà văn”. Làm nên hoàn cảnh điển hình là một loạt những tình
huống. Những nhà văn có tài đều tạo ra những tình huống vừa rất chân thực vừa
mang tính hư cấu như vậy để nói về những điều rất giống thực hoặc những điều
“có thể xảy ra”. Vũ Trọng Phụng thường dùng nghệ thuật cường điệu, phóng đại để
tạo nên những tình huống trào phúng hài hước, vô lí, kỳ quặc, từ đó nhà văn bộc
lộ nhiều mặt, nhiều bình diện của cái xã hội xấu xa, giả dối một cách mạnh mẽ
và sâu sắc.
Dưới ngòi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng,
chương nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt
nhất là chương “Hạnh phúc của một tang gia”.
Nghệ
thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng
Có
thể nói, mỗi chương Số đỏ là một tình huống trào phúng và các tình huống trào
phúng lại được xâu chuỗi liên tục thông qua bút pháp phóng đại tài tình đã tạo
nên sắc thái tiếng cười độc đáo, phong phú và đa dạng, đưa người đọc đi hết từ
bất ngờ này sang bất ngờ khác. Trong chương này, chúng tôi đi sâu vào ba tình
huống rất tiêu biểu cho phong cách trào phúng của Vũ Trọng Phụng: tình huống ngẫu
nhiên, tình huống mang tính chất vô nghĩa lý của nhân vật và tình huống hiểu lầm.
·
Tình huống ngẫu nhiên
Phạm
trù Ngẫu nhiên và tất nhiên miêu tả những hiện tượng diễn tiến trái ngược nhau.
Trong Số đỏ, tình huống ngẫu nhiên được nhà văn sử dụng rất hiệu quả. Hiệu quả
thẩm mỹ và giá trị phê phán của tình huống ngẫu nhiên chính là ở chỗ ngẫu nhiên
mà tất yếu đó. Tiểu thuyết Số đỏ, từ đầu đến cuối thằng ma cà bông Xuân chỉ gặp
toàn may mắn, gặp cái rủi thì cũng là cái rủi dẫn đến cái may. Thằng ma cà bông
Xuân toàn gặp những tình thế ngẫu nhiên mà tất yếu nên càng lúc càng nhập sâu
hơn vào thế giới thượng lưu. Nói cách khác, trong một xã hội bịp bợm, mọi giá
trị đạo đức bị đảo lộn thì các tình huống ngẫu nhiên kiểu như tiểu thuyết Số đỏ
lại là tất yếu.
·
Tình huống mang tính chất vô nghĩa lý của
nhân vật
Trong
tiểu thuyết Số đỏ, với quan niệm cuộc đời “vô nghĩa lý”, nhà văn đã xây dựng những
tình huống mang tính chất vô nghĩa lý của nhân vật. Trong đó, chương XV là giá
trị trào phúng được đánh giá cao nhất. Nguyễn Công Hoan cũng đã vẽ ra tình huống
mang tính chất vô nhân đạo trong truyện ngắn Báo hiếu: trả nghĩa cha (1933), Báo
hiếu: trả nghĩa mẹ (1933). Những tình huống bi hài xen kẽ liên tiếp, khiến người
đọc cười đó mà không thể không cảm thấy căm giận, khinh bỉ hạng người vô liêm sỉ
trong xã hội. Đọc hai truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan chúng ta nhớ đến đại gia
đình bất hiếu của nhà cố Hồng trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Dĩ nhiên,
Vũ Trọng Phụng đã đào huyệt chôn xã hội tư sản bằng tiếngcười chua chát hơn.
Trong
chương XV nhà văn đã miêu tả một đám tang rất lạ lùng, một đám tang hạnh phúc
cho tất cả mọi người. Cái chết của cụ cố Tổ lại là sự mong chờ từ lâu của đám
con cháu. Đám tang mà vui như lễ hội. Vẻ ngoài là tang gia bối rối nhưng thực
chất là hạnh phúc của một tang gia, mọi người làm ra bộ mặt của người đi đưa
đám nhưng lại tán chuyện vui vẻ để cười thầm với nhau. Bất cứ một nhân vậtnào
trong chương XV này đều vô nhân đạo, vô đạo đức, sức mạnh trào phúng trong chương
này là sức mạnh tung hê, tống tiễn một gia đình bất hiếu, một xã hội méo mó về
nhân tính. Qua những chi tiết và tình huống vô nghĩa lý, tác giả phủ nhận cái
xã hội lố lăng, dốt nát,vô nghĩa lý, vô nhân đạo thời bấy giờ.
·
Tình huống hiểu nhầm
Trong
tình huống hiểu nhầm, các nhân vật thường hiểu lầm ngớ ngẩn về cùng một sự việc
dẫn đến những hành vi “lệch pha” rất buồn cười. Những tình huống hiểu nhầm tạo
ra tiếng cười hài hước và qua đó nhà văn đã phê phán đủ các giai tầng trong xã
hội, từ hạ lưu đến trí thức thượng lưu trong xã hội Âu hóa tân thời giả dối, vô
nghĩa lý. Chẳng hạn, buổi khánh thành sân quần riêng của bà Phó Đoan, người vú
già thì quê mùa hiểu nhầm về sân quần; đốc tờ Trực Ngôn và Xuân Tóc Đỏ nói về bệnh
của cậu Phước con Giời con Phật. Xuân mở cửa sổ nhìn ngoài cảnh khiến Trực Ngôn
hiểu nhầm và khâm phục về sự hiểu biết Freud của Xuân; Xuân thừa nhận mình là
vô học,xưa nay nhặt ban quần, hạ lưu, không biết thuốc. Nhưng người ta không
tin lời của nó. Xuân làm cụ Tổ uất lên mà chết nên sợ quá bỏchạy nhưng mọi người
lại hiểu nhầm hành động của nó và cứ tưởng nó làm cao, tức giận nên không nhận
chữa cho cụ Tổ nữa, v.v... Vũ Trọng Phụng đã xây dựng những tình huống trào
phúng và tình huống nào cũng có tác dụng trực tiếp hay gián tiếp mang tới cho Xuân
sự may mắn. Tình huống trào phúng của Số đỏ rất phong phú, đa dạng mà vừa chân
thực vừa được lọc qua trí tưởng tượng và óc hư cấu của tác giả, tất cả nhằm vạch
trần sự giả dối, xấu xa, sự xuống cấp của những chuẩn mực đạo đức và sự đảo lộn
giá trị xã hội. “Số đỏ” miêu tả hiện tượng xã hội ở góc độ hài hước, nực cười của
nó, nghệ thuật trào phúng bậc thầy làm cho tác phẩm giàu tiếng cười và giàu ý nghĩa
phê phán.
Trong “Số đỏ” Vũ Trọng
Phụng thường dùng thủ pháp phóng đại tạo tình huống để tạo nên tiếng cười. Nét
đặc sắc nổi lên ở Số đỏ là tác giả phóng đại, tạo ra các tình huống bất ngờ,
gây tiếng cười suốt tác phẩm, nhưng phóng đại mà như không phóng đại, bởi người
đọc thấy có lí, thấy chân thật.
Ví như chuyện về nhân vật Xuân:
Ví như chuyện về nhân vật Xuân:
– Xuân bị đuổi việc, bất ngờ gặp mụ Phó Đoan, rồi lọt vào bộ máy Âu hóa của Văn Minh. Vì khoác lác, Văn Minh giới thiệu Xuân là sinh viên trường thuốc, rồi sợ há miệng mắc quai nên y cứ từng bước mở đường cho Xuân đến đài danh vọng.
– Vì bất ngờ, Xuân làm cho ông bố cụ cố Hồng khỏi bệnh. Rồi cũng bất ngờ, y làm cho ông bố cụ cố Hồng chết. Thế là y trở thành ân nhân của gia đình Văn Minh. Rồi, nhờ thua quần vợt, Xuân trở thành anh hùng cứu quốc, được phủ toàn quyền thưởng Bắc đẩu bội tinh...
Và sự phóng đại đó đã tạo nên tình huống
bi hài kịch: Tình huống “bi hài kịch” chính là sự phối trộn giữa hai yếu tố: bi
và hài. Nếu như tình huống “bi hài” trong truyện ngắn lãng mạn thường là cái cười
nhẹ nhàng, thi vị, trữ tình, thì cái “bi hài” của truyện ngắn hiện thực phê
phán là cái cười chua chát trước thực tại đời sống.
Xã hội Việt Nam những năm 1930 – 1940 “không
thiếu những tiếng não nùng, ai oán, nỉ non, tiếng thở dài và cả tiếng khóc”.
Trong những truyện ngắn của mình, Vũ Trọng Phụng không chỉ cười cợt, phê phán
trước những mặt trái của xã hội mà ông cười cả trong sự buồn.
Tình huống bi hài này trong tiểu thuyết
“Số đỏ” được phản ánh rất sinh động qua những trang miêu tả cảnh cái chết của cụ
Cố, chương trình sách giáo khoa hiện hành trích dẫn với tiêu đề Hạnh phúc một
tang gia, ... Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công một tình huống
điển hình độc đáp để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Đó là một đám tang làm nhiều
người hạnh phúc. Trước hết phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột rà
với cụ Tổ. Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, đứa cháu nào tiếc thương bởi
đã từ lâu, họ mong cụ chết cho nhanh để chia gia tài. Ngược lại, cái chết của cụ
đã đem đến cho họ một niềm vui to lớn không che giấu nổi – một hạnh phúc: Cái
chết đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm cũng vui sướng
thỏa thích... Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phổ, gọi phường kèn,
thuê xe đám tang... Tang gia ai cũng vui vẻ cả...
Từ một tình huống truyện cơ bản là cái
chết, đám tang của cụ cố Tổ, Vũ Trọng Phụng đã xây dựng những mâu thuẫn theo
nhiều tình huống khác nhau nhằm để thể hiện rõ bản chất vô đạo đức với sự lố
lăng của tầng lớp xã hội “thượng lưu” lúc bấy giờ. Cứ như thế đến cảnh hạ huyệt
mở đầu là cậu Tú Tân với “chiếc áo thụng trắng” trách móc từng người và dàng dựng
những cảnh để khoe tài năng chụp ảnh của mình 1 cách giả dối, cùng với đó là những
người bạn của cậu “rầm rộ nhảy lên những ngôi mộ khác mà chụp để cho ảnh khỏi
giống nhau “thật là vô văn hóa, bát nháu, làm mất đi vẻ trang nghiêm của đám.
Tiếp đến “Xuân tóc đỏ đứng cầm mủ nghiêm trang một chỗ bên cạnh ông Phán mọc sừng”
với thủ pháp nghệ thuật của mình tác giả đã miêu tả sự dí dõm của cảnh hạ huyệt
bằng những tiếng khóc “Hứt...hứt.....hứt...” của ông Phán mọc sừng bên cạnh đó
ông còn bàn việc làm ăn với Xuân tóc đỏ, ông dúi vào tay nó 1 cái giấy bạc 5 đồng
gấp tư. Qua cảnh hạ huyệt và cảnh đưa đám tác giả nêu rõ hơn về màn kịch thể hiện
sự lố lăng, đồi bại bất hiếu, bất nghĩa của xã hội lúc bấy giờ.
Không đi vào xây dựng những nhân vật bi
hài kịch tâm lý như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng lại rất đắt trong việc chọn chi tiết
tình huống; ông trình bày sự ti tiện của con người trước áp lực của kim tiền.
Tác phẩm của ông đào sâu xuống cái thấp hèn của con người, cái thối nát vô luân
trong xã hội. Đọc truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, người đọc không chỉ khái quát hiện
thực xã hội Việt Nam
những năm đầu thế kỷ XX mà còn suy ngẫm về đạo lý làm người ngày nay.
c.
Ngôn ngữ và giọng điệu trào phúng
Văn
học là nghệ thuật ngôn từ. Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình cá
biệt hóa nhân vật. Một trong những yếu tố để xác định mức độ thành công trong
xây dựng nhân vật của nhà văn là nhà văn có xây dựng được phong cách ngôn ngữ
riêng cho từng nhân vật hay không. Giọng điệu cũng là yếu tố quan trọng trong một
tác phẩm văn học. Giọng điệu là một hệ thống những sắc điệu, nó thể hiện cách
nói, thái độ, tình cảm của tác giả đối với hiện tượng đời sống.
v Ngôn ngữ trào
phúng
Ngôn
ngữ của Vũ Trọng Phụng rất sinh động và đầy ấn tượng, vừa rất hóm hỉnh lại thật
chua cay, sắc nhọn. Trong Số đỏ, Vũ Trọng Phụng dùng nhiều nghịch ngữ để phản
ánh cái xã hội đầy nghịch lý, xã hội nhố nhăng, bịp bợm.
·
Từ ngữ quen thuộc của nhân vật
Trong
Số đỏ, Vũ Trọng Phụng đã xây dựng nhiều nhân vật hay lặp đi lặp lại một số câu
nói quen thuộc. Câu “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi” của cụ cố Hồng, những tiếng “Mẹ
kiếp”, “Nước mẹ gì” của Xuân Tóc Đỏ, “Em chã” của cậu Phước con Giời con Phật
chẳng hạn.
Cụ
cố Hồng thường xuyên lẩm bẩm câu nói “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi” trong đối thoại
với những nhân vật khác mặc dù cụ chưa hiểu đầu đuôi câu chuyện ra làm sao mà trong
đó có hài hước, mỉa mai. Nhân vật sính dùng từ ngữ quen thuộc xếp sau cụ cố Hồng
là Xuân Tóc Đỏ. Từ ngữ quen thuộc của Xuân Tóc Đỏ có thể chia thành hai loại. Một
là ngôn ngữ vỉa hè và hai là ngôn ngữ tân thời học thuộc được từ nhà thiết kế
TYPN. Khi nó đã gia nhập một xã hội tư sản thượng lưu trí thức và đứng phăng
lên thành anh hùng, vẫn giữ ngôn ngữ hạ lưu. Còn ngôn ngữ tân thời, câu “chúng
tôi rất được hân hạnh”, hắn sẵn sàng áp dụng vào tất cả các cuộc đối thoại coi
như một câu nó rất văn hóa, một câu nói xã giao, lịch sự. Có rất nhiều tình huống
hài hước với câu nói này. Thông qua ngôn ngữ của Xuân,Vũ Trọng Phụng có ý rằng,
bản chất con người là thứ không thay đổi dù cho hoàn cảnh đã thay đổi. Nhân vật
xếp hàng thứ ba là cậu Phước. Cậu Phước mở mồm ra là câu nào cũng “Em chã!”, và
đó khiến người đọc phải bật cười. Vũ Trọng Phụng đã đặc biệt thành công trong
việc tạo nên chân dung một “con Giời con Phật” kém giáo dục, chỉ phát triển
thân thể và tràn trề bản năng tính dục như mẹ.
·
Ngôn ngữ mang tính hài hước
Như
đã nói, tiểu thuyết Số đỏ là tiểu thuyết trào phúng, hầu hết lời nói của nhân vật
đều tạo nên những tiếng cười hài hước, mỉa mai, châm biếm. Ví dụ: thông qua
ngôn ngữ của giới cảnh sát, Vũ Trọng Phụng cho thấy xã hội thuộc địa rất nhố
nhăng, bịp bợm. còn Vũ Trọng Phụng đã xây dựng không gian hiệu may tân thời Âu
hóa với đầy những chuyện dối trá, mưu mô, mâu thuẫn xảy ra để phê phán, đả kích
phong trào cuộc Âu hóa và việc cải cách xã hội hủ lậu. Cuộc cải cách một nửa của
TYPN và sự mâu thuẫn trong quan niệm về thời trang của ông ta khiến chúng ta cười
mai mỉa cho cái xã hội giả dối, kệch cỡm.
·
Ngôn ngữ đối thoại
Ngôn
ngữ chủ yếu của nhân vật Vũ Trọng Phụng là đối thoại. Bằng ngôn ngữ đối thoại,
Vũ Trọng Phụng đã bộc lộ thật rõ nét tâm trạng, tính cách của từng nhân vật.
Trong tác phẩm Số đỏ, những lời thoại mang tính hài hước, tạo nên tiếng cười và
nó giúp nhà văn xây dựng nhân vật cá tính hóa rất độc đáo. Vũ Trọng Phụng không
ngần ngại vạch mặt chỉ tên những kẻ trí thức rởm, những “mệnh phụ phu nhân” nhố
nhăng, vô đạo đức. Bản chất vô nhân đạo của những kẻ thuộc tầng lớp trí thức và
tầng lớp thượng lưu đã tố cáo xã hội bất nhân đương thời. Còn Ngôn ngữ tiểu
thuyết Vũ Trọng Phụng rất giầu tính ẩn dụ. Một chi tiết tưởng rất nhỏ mà Vũ Trọng
Phụng “gài” được vào một ý nghĩa thật thâm sâu.
·
Ngôn ngữ trần thuật
Trong
tiểu thuyết Số đỏ, tác giả đóng vai trò là người trần thuật, từ góc nhìn phê
phán tác giả đã miêu tả một cách hài hước và sinh động về hoàn cảnh, về lời
nói, hành động, tính cách của nhân vật bằng ngôn ngữ trần thuật chứa đựng đầy yếu
tố mâu thuẫn, nghịch lý. Nhưng cũng có khi người trần thuật mất tính khách
quan. Tác giả tham gia vào tác phẩm một cách trực tiếp. Nhà văn cảm thấy thế
nào, muốn nói gì thì diễn đạt trực tiếp nó. Ngoài ra nhà văn cũng bộc lộ thái độ
chủ quan của mình qua việc dùng nhiều trạng từ, tính từ kèm theo phó từ như “lắm”
hoặc “rất” mang tính phóng đại. Ngôn ngữ của nhân vật và ngôn ngữ của người trần
thuật góp phần biểu đạt nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Trong
tiểu thuyết Số đỏ, Xuân Tóc Đỏ, bà Phó Đoan, cụ cố Hồng là những nhân vật điển
hình tiêu biểu với ngôn ngữ riêng rất đặc sắc. Ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ trần
thuật đã góp phần nhà văn miêu tả tính cách, bản chất của nhân vật một cách cụ
thể, sinh động và lột tả hiện thực xã hội nhốn nháo bấy giờ. Qua đối thoại của
các nhân vật, chúng ta có thể thấy một xã hội giả dối, bịp bợm, mọi giá trị đạo
đức, mọi chuẩn mực xã hội bị phá vỡ.
v Giọng điệu trào
phúng
Vũ
Trọng Phụng nhận thấy xã hội thực dân nửa phong kiến là một xã hội vô nghĩa lý,
do đó ông quyết định dùng giọng điệu trào phúng, đả kích, giễu nhại để lột tả
cái xã hội đầy những cái ác, cái dâm, cái đểu giả, nhố nhăng, bịp bợm ấy. Vũ Trọng
Phụng đã tạo nên giọng điệu rất đa dạng, phong phú, phù hợp với từng nhân vật,
từng tính cách, từng tình huống...
·
Giọng điệu châm biếm - đả kích
Trong
Số đỏ, giọng điệu châm biếm sâu cay là một yếu tố góp phần bộc lộ tư tưởng,
quan niệm của nhà văn. Vũ Trọng Phụng đã gây cười bằng cách sử dụng nghịch lý
ngôn ngữ, những kết hợp từ trái với thông thường. Tiếng cười trong Số đỏ chính
là cười cái xã hội Âu hóa không ra gì, không có cách gì hiểu được. Giọng điệu của
Xuân Tóc Đỏ khiến chúng tôi phải chú ý. Địa vị xã hội của Xuân Tóc Đỏ càng tăng
tiến thì giọng điệu của nó càng hách dịch. VũTrọng Phụng châm biếm, đả kích xã
hội bịp bợm, giả dối, dân chúnghèn hạ, ngu dốt. Bởi vì Vũ Trọng Phụng biết rõ
những kẻ thượng lưu trí thức không khác gì với người vô học, hạ lưu. Chúng là
trí thức rởm, là trọc phú học làm sang.
·
Giọng điệu hài hước, hóm hỉnh
Giọng
điệu hài hước, hóm hỉnh tạo nên tiếng cười mang tính phê phán xã hội nhẹ nhàng.
Trong tác phẩm, Vũ Trọng Phụng đã sáng tạo những yếu tố hài hước thông qua những
thủ pháp việc sử dụng thông thạo ngôn ngữ, so sánh, phóng đại, chế giễu... để
khắc họa một chân dung mang tính châm biếm, vừa kỳ quặc vừa khiến người ta buồn
cười và vì thế người đọc được cười những tràng cười rất thoải mái.
·
Giọng điệu giễu nhại
Giọng
điệu giễu nhại là giọng điệu chủ đạo của tác phẩm này. Vũ Trọng Phụng đã kể
chuyện với giọng điệu giễu nhại để cười, để châm biếm, phê phán xã hội đương thời
một cách đích đáng và hả hê. Giọng điệu giễu nhại trong Số đỏ tấn công và phá hủy
những kẻ đại diện cho xã hội Âu hóa lúc bấy giờ, phá hủy bọn trí thức rởm, phá
hủy bọn lưu manh hãnh tiến, phá hủy phụ nữ tân thời nhố nhăng. Giọng điệu giễu
nhại của Số đỏ được triển khai ở nhiều cấp độ: nhại giữa trào lưu này với trào
lưu khác; nhại ngay chính những thói hư tật xấu của con người ngoài đời…
Giọng
điệu châm biếm, đả kích của Vũ Trọng Phụng có vai trò mạnh mẽ để phê phán xã hội
giả dối đương thời. Còn giọng điệu hài hước, hóm hỉnh của ông đã tạo nên tiếng
cười một cách thoải mái, sảng khoái nhưng lại chế giễu nặng nề. Chính vì vậy,
giọng điệu nhà văn Vũ Trọng Phụng rất độc đáo và trong tác phẩm, ngôn ngữ và giọng
điệu vai trò rất lớn.
TỔNG KẾT
Bằng ngòi bút trào
phúng độc đáo, “Số đỏ” lên án gay gắt cái xã hội tư sản thành thị Việt nam đang
chạy theo lối sống văn minh rởm đời hết sức lố lăng đồi bại đương thời. Tác giả
đã đả kích cay độc các phong trào "Âu hóa", "thể thao",
"giải phóng nữ quyền" đang phát triển rầm rộ khi ấy, nhân danh
"văn minh", "tiến bộ", "cải cách xã hội" mà thực
chất chỉ là ăn chơi trụy lạc, làm tiền, chà đạp trắng trợn lên mọi nền nếp đạo
đức truyền thống...Số đỏ tuy chỉ tập trung phê phán xã hội tư sản về phương diện
đạo đức, sinh hoạt-đây là một hạn chế - song tác phẩm vẫn có màu sắc chính trị
thời sự và có tính chiến đấu rõ rệt...Tuy nhiên, sự phản ánh hiện thực của “Số
đỏ” có rộng song chưa thật sâu. Trong khi lật mặt bọn bịp bợm giả danh
"bình dân", ít nhiều nhà văn vẫn để lộ cái nhìn miệt thị đối với quần
chúng lao động. Quan điểm sinh lý thô bạo - ảnh hưởng của học thuyết Phrơt- khi
giải thích "cái dâm của loài người" và sự miêu tả có phần sống sượng
đây đó, cũng hạn chế chiều sâu nhận thức và sức tố cáo của tác phẩm
Một đời văn chỉ một thành công sáng tạo nghệ thuật như thế đã đủ
muôn đời bất hủ ở cõi nhân gian. Nhưng "Số đỏ" không chỉ có thế. Cho
đến nay, nó là tác phẩm độc nhất vô nhị trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại
xét về mặt thể loại. "Số đỏ" có giá trị của một sự cách tân thể loại
đối với tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Sự xuất hiện của "Số đỏ" trong
văn học công khai giai đoạn 1930 - 1945 vừa có tính đồng loại vừa có tính riêng
biệt so với các tác phẩm khác. Đồng loại ở việc khai thác những mâu thuẫn của
cái xã hội thuộc địa nửa phong kiến: nông dân - địa chủ, trí thức - tư sản,
nông thôn - thành thị. Riêng biệt ở chỗ "Số đỏ" tập trung cao độ thể
hiện sự dị dạng của con người trong một xã hội đang tư sản hóa cuối mùa. Và Vũ
Trọng Phụng đã thành công xuất sắc, đã để lại một sự cách tân thể loại quan trọng
cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.