LỜI MỞ ĐẦU
Tự lực văn đoàn từ lâu đã trở thành
một điểm sáng trong nền văn học nước nhà với những tên tuổi quen thuộc: Nhất
Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Hoàng Đạo (Nguyễn
Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), Tú
Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Trần Tiêu và Xuân Diệu, với những tác phẩm để lại dấu
ấn đậm sâu trong lòng người: Hồn bướm mơ
tiên (1933), Nửa chừng xuân (1934), Tiêu Sơn tráng sĩ (1934), Gia đình (1936),
Thoát ly (1937), Thừa tự (1938) của Khái Hưng; Đoạn tuyệt (1934), Lạnh lùng (1936), Đôi bạn (1937)… của Nhất Linh, Con đường sáng (1938) của Hoàng Đạo,
v.v…. Đến với tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, người đọc dường như chìm trong thế giới của những điều đẹp đẽ, lí tưởng của những chân trời tình yêu cao đẹp. Con người tiểu thuyết Tự lực văn đoàn mang trong mình những nét đẹp thời đại, những nét đẹp mà bấy lâu bị khuất ấp, nay có dịp lên tiếng và tỏa sáng. Đó là vẻ đẹp của cá nhân, của bản thể không bị ràng buộc bởi những giáo điều cổ hủ. Chính đặc điểm này đã hình thành nên một quan niệm nhân sinh quan mới mẻ: con người cá nhân được quyền sống một cuộc sống tự do, sống như chính con người họ và sống theo nhịp chảy của thời đại Tây hóa.
v.v…. Đến với tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, người đọc dường như chìm trong thế giới của những điều đẹp đẽ, lí tưởng của những chân trời tình yêu cao đẹp. Con người tiểu thuyết Tự lực văn đoàn mang trong mình những nét đẹp thời đại, những nét đẹp mà bấy lâu bị khuất ấp, nay có dịp lên tiếng và tỏa sáng. Đó là vẻ đẹp của cá nhân, của bản thể không bị ràng buộc bởi những giáo điều cổ hủ. Chính đặc điểm này đã hình thành nên một quan niệm nhân sinh quan mới mẻ: con người cá nhân được quyền sống một cuộc sống tự do, sống như chính con người họ và sống theo nhịp chảy của thời đại Tây hóa.
CHƯƠNG I: CON NGƯỜI CÁ NHÂN
1.
Sự
xuất hiện của con người cá nhân như một vấn đề xã hội và văn học:
Đối với khuynh hướng tiểu thuyết lãng mạn
mà tiêu biểu là tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn, vấn đề con người cá nhân
thực sự là nội dung cơ bản, xuyên suốt trong quan niệm nghệ thuật về con người.
Con người cá nhân được ý thức với việc khẳng định tư tưởng tiến bộ tất yếu của
sự phát triển xã hội hay nhằm khẳng định tư tưởng dân chủ nhân đạo.
Những biến động về đời sống kinh tế,
chính trị văn hóa của xã hội Việt Nam vào những năm 1930-1945 đã dẫn đến sự xuất
hiện của con người cá nhân và ý thức mới về cá nhân. Có thể nói tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn là một đỉnh cao của hành trình tự ý thức cá nhân trong xã hội và
văn học Việt Nam hiện đại. Về chính trị: xã hội phong kiến đang bắt đầu tan rã,
thực dân Pháp ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân, phát xít Nhật thì đang nhòm ngó
vào Việt Nam. Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời lãnh đạo phong trào yêu nước. Về
kinh tế: chính sách độc chiếm thị trường làm dân ta bần cùng và rơi vào vòng
quay kinh tế tư sản. Về văn hóa: hệ tư tưởng phong kiến bắt đầu sụp đổ và hệ tư
tưởng tư sản đang lên, hệ tư tưởng vô sản bắt đầu xuất hiện. Sách báo hải ngoại
du nhập vào Việt Nam. Báo chí nở rội khắp nơi…
Sự bùng nổ của thơ mới và văn xuôi Tự lực
văn đoàn đánh dấu sự hình thành quan niệm về cá nhân trong văn học. Ở mỗi giai
đoạn, mỗi trào lưu văn học đều có quan điểm riêng về con người. So với văn học
trung đại, quan niệm về con người của Tự lực văn đoàn có nhiều cách tân đổi mới.
Sự cách tân ấy thể hiện trong tư tưởng của nhà văn, ở việc đấu tranh giải phóng
cái tôi cá nhân khỏi sự kìm kẹp của lễ giáo phong kiến hướng đến quyền tự do
quyết định hạnh phúc. Tình yêu đi theo nhịp đập của trái tim chứ không theo sự
xắp xếp của cha mẹ. Đó không phải là thứ tình yêu tài tử giai nhân hay những mối
tình theo thông lệ xã hội như mối tình của Dũng và Loan trong Đoạn tuyệt, Mai và Lộc trong Nửa chừng xuân, Trương và Tuyết trong Đời mưa gió, Nhung và Nghĩa trong Lạnh lùng..vv.. Tất nhiên, để đến được với
hạnh phúc họ gặp vô vàn những cản trở của gia đình trọng phú quý, cổ hủ và
chính từ phía bản thân họ. Thế nhưng những rung động tinh tế trong tâm hồn mỗi
nhân vật thì không thể nào giấu nổi. Có thể nói một trong những cách tân quan
trọng về nội dung tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là thay đổi cách nhìn về con người.
Nhà văn đưa con người ra đấu tranh trực diện với xã hội cũ. Kết thúc tác phẩm
có thể là những tương lai xán lạn cho nhân vật hoặc còn để lại nhiều trăn trở
trong lòng người đọc.
2.
Những
cấp độ của con người cá nhân:
2.1.
Xung đột của con người
cá nhân với gia đình truyền thống:
Vào những
năm 30 của thế kỷ XX, sự xâm lược của tư sản Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có
những biến chuyển mạnh mẽ về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa. Sự mâu thuẫn giữa
phương Đông và phương Tây, giữa cổ truyền và hiện đại, giữa cái cũ và cái mới,
giữa cá nhân và cộng đồng xuất hiện cùng với sự thâm nhập của nền văn minh tư sản
Pháp vào một đất nước thuần túy phương Đông. Mối quan hệ đối lập đó đã đẻ ra một
loạt con người khác trước từ tư tưởng đến đời sống tâm hồn.
Trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn đã
xuất hiện những con người mới ấy, những “con người ở một xã hội khác hẳn cái xã
hội Việt Nam bình thường”. Đó là những nhân vật mới của một xã hội đang biến động
chuyển mình từ phong kiến sang hướng tư sản hóa. Sự khẳng định ý thức cá nhân bằng
việc phủ định những ràng buộc phong kiến trong cuộc xung đột của cá nhân với xã
hội truyền thống được thể hiện nổi bật trong ba tác phẩm: Nửa chừng xuân ( Khái Hưng ), Đoạn
tuyệt (Nhất Linh ), Thoát ly (
Khái Hưng ). Ở đó, ý thức hướng tới một cuộc đời mới với một quan niệm sống mới,
là ý thức thường trực trong con người Tự lực văn đoàn.
Xung đột của cá nhân với xã hội truyền
thống được miêu tả trong tác phẩm dưới hình thức của cuộc xung đột giữa hai thế
hệ, giữa cái cũ và cái mới trong gia đình. Các nhân vật của Tự lực văn đoàn đã
luôn xung đột với những gì cản trở quyền vươn tới cuộc đời mới. Ở đó, họ tranh
đấu để sống một cuộc sống theo ý muốn cá nhân mình, đồng thời khẳng định mọi thứ
quyền cá nhân, quyền con người. Hơn nữa, ý thức về quyền bảo vệ nhân phẩm và
danh dự của mình là một ý thức thường trực trong con người Tự lực văn đoàn. Họ
luôn được đặt trong sự thử thách của hoàn cảnh nhưng họ đã không cam chịu để
hoàn cảnh bóp chết. Họ lúc đầu là một con người khỏe khoắn đã luôn đấu tranh để
giành thế chủ động dù thắng lợi giữa chừng. Tư thế lạc quan đậm màu ảo tưởng ấy
đem lại cho con người Tự lực văn đoàn một tính chất lãng mạn. Từ đó, có thể khẳng
định rằng: “Tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn là bản tuyên ngôn nhân quyền bằng nghệ thuật”.
2.2.
Con người cá nhân tìm sự
giải thoát trong tình yêu, trong thế giới nội tâm hay trong những ước mơ về cải
cách xã hội:
Xung
đột của con người cá nhân với dấu hiệu truyền thống là dấu hiệu của sự hiện diện
tích cực nhất của con người cá nhân Tự lực văn đoàn. Đa số các nhân vật không
đi đến đoạn tuyệt hay phá bỏ giới hạn thực tế mà họ tìm sự khẳng định cá nhân của
mình theo nhiều hướng khác nhau:
Trước
hết là thoát ly về tình yêu. “Thoát ly” lại là một động tác tích cực, không chịu
lùi bước của con người cá nhân để giữ cho mình thế giới riêng, chân trời riêng.
Tất cả các cuộc tình được miêu tả trong tiểu thuyết đều là những mối tình lãng
mạn diễn ra theo nhịp đập của trái tim, bất chấp “môn đăng hộ đối” đứng ngoài mọi
sự chênh lệch xã hội như Ngọc (Hồn bướm
mơ tiên) một chàng trai thành phố hào hoa lại yêu Lan-một cô gái tu hành
nơi thôn dã …Những mối tình này chưa đến mức tương phản gay gắt nhưng cũng là
những “thách thức” với những quan niệm cổ hủ trong xã hội và mang một dáng vẻ
“ngông ngạo”. Tình yêu đó vượt trên những thông lệ xã hội, những ràng buộc luân
lí. Không vượt qua được ngưỡng cửa tôn giáo, Ngọc (Hồn bướm mơ tiên) đã tìm đến một tình yêu “tâm hồn – lí tưởng” dưới
bóng từ bi của Phật tổ.
2.3.
Ý thức cá nhân cực đoan
đòi hỏi bản năng tự do đứng trên hoặc bất chấp các quan hệ xã hội:
Bên
cạnh những ý kiến ca ngợi những yếu tố hiện đại, các tiểu thuyết của Tự lực văn
đoàn cũng vấp phải những nhận định không mấy thiện cảm về việc thể hiện ý thức
cá nhân quá mới so với nền văn học cùng thời của nước nhà. Ý thức cá nhân cực
đoan đòi hỏi bản năng, tự do đứng trên hoặc bất chấp các quan hệ xã hội là cấp
độ cao nhất của con người cá nhân trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Hiện tượng
này đã nhận lấy những ý kiến trái chiều của các nhà nghiên cứu.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoàng Khung
trong lời giới thiệu về bộ Văn xuôi lãng
mạn Việt Nam nhận định về văn học Tự lực văn đoàn đã viết: “Thời kì mặt trận
dân chủ sự phân hóa của văn học lãng mạn diễn ra rõ rệt: Một mặt, họ tiếp tục
chủ đề tình yêu, tiếp tục phê phán lễ giáo phong tục gia đình phong kiến nhưng
đề cao một chủ nghĩa cá nhân thoái hóa (Đời
mưa gió, Trống Mái, Đẹp) để rồi cuối cùng sau đó đi vào đồi bại với chủ
nghĩa vô luân trắng trợn (Bướm trắng của
Nhất Linh, Thanh Đức của Khái Hưng)”.
Đời
mưa gió, Trống mái, đẹp, Bướm trắng, Thanh đức thực
chất chỉ là phác thảo thí nghiệm về con người cá nhân cực đoan. Các nhân vật cá
nhân luôn được đặt trong sự đối lập với các chuẩn mực xã hội, luôn bộc lộ, đánh
giá và ý thức về mình. Họ luôn tuyệt đối hóa con người cá nhân của mình với triết
lý: Tôi thuộc về tôi mà quên mất rằng
tôi còn thuộc về người khác. Mặt khác con người cá nhân ở đây cũng mang trong
mình cái triết lý: Tôi không phải người
khác vì thế họ luôn ở tư thế khác người khác và trở nên lập dị.
Nếu như ta gọi tiểu thuyết của Tự lực
văn đoàn là tiểu thuyết luận đề thì dường như họ đã có một luận đề nhất quán từ
trước đến sau – Luận đề về con người cá nhân: Từ con người cá nhân xã hội mang đậm màu sắc
chính trị qua con người cá nhân lãng mạn lập dị đến con người cực đoan liều
lĩnh.
3.
Về
mức độ cá tính hóa nhân vật:
Thứ
nhất về mặt chân dung: chân dung nhân vật chung chung, mờ nhạt. Ví dụ như
Trương trong Bướm trắng, Nam trong Đẹp. Thứ hai về hành động: nhân vật ít
có những hành động mang cá tính độc đáo, nếu có chỉ là “lập dị”. Thứ ba về ngôn
ngữ: các nhân vật không có ngôn ngữ riêng của mình. Mọi lời nói của nhân vật đều
như rập khuôn từ ngôn ngữ phương Tây.
4.
Quan
niệm mới về nhân vật:
Từ sự khám phá mới về con người, thấy
con người là sự tổng hòa của nhiều tính cách, con người có cả phần lý tính, tư
tưởng và bản năng, cái xấu và cái tốt... đã xuất hiện loại nhân vật phức tạp,
xóa nhòa cái mốc giữa nhân vật phản diện và chính diện. Có thể nói, ở Bướm trắng của Nhất Linh và Đẹp, Băn khoăn của Khái Hưng, tâm lý con
người được thể hiện vô cùng phong phú, ngày càng phức tạp và được thể hiện ra
như một quá trình, luôn luôn vận động và biến đổi. Đó là sự vận động đầy mâu
thuẫn trong tình cảm và tư tưởng, vô thức và ý thức, tư duy và tưởng tượng, ...
CHƯƠNG II: THẾ GIỚI NỘI TÂM
1.
Miêu
tả nội tâm như một thành tựu của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
Trong
trào lưu chung của tiểu thuyết hiện đại, với những ảnh hưởng của tiểu thuyết
Pháp – đã mở ra một sự miêu tả thế giới nội tâm mà văn học trước đó chưa đạt được.
Giáo trình của nhóm Lê Qúy Đôn nhận xét “Văn
chương lãng mạn chủ yếu là tiếng nói của
tình cảm, cảm giác. Nó diễn tả những đau buồn, uất ức của trái tim… chưa bao giờ
cái “tôi” tâm hồn được người ta phô diễn với tất cả khía cạnh sâu rộng như thời
kỳ hiện đại. Bây giờ người ta ca ngợi tự do yêu đương, nói lên những rung động
của mình trước vũ trụ… Cả một thế giới tâm tình trước kia hé mở một cách rụt
rè, e lệ bây giờ được phô bày, mổ xẻ tinh vi”. Tuy nhiên, miêu tả tâm lý
nhân vật chưa phải là mặt thành công nhất của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Thế
giới cảm giác mới chính là nét khu biệt và là thành tựu nghệ thuật trong việc
thể hiện nội tâm của văn học lãng mạn.
2.
Thế
giới cảm giác trong nội tâm của con người Tự lực văn đoàn
Trong toàn bộ tiểu thuyết của Tự lực
văn đoàn, cảm giác chiếm vai trò nổi bật trong thế giới nội tâm. Hầu như tất cả
các tác phẩm của Tự lực văn đoàn đều mở đầu hoặc kết thúc bằng những đoạn văn
miêu tả cảm giác, có nghĩa là hành trình tự sự của tác phẩm diễn ra trên cấp độ
đó. Ở tác phẩm Đoạn tuyệt, mở đầu cũng là một đoạn văn miêu tả cảm giác: “Một
buổi trưa chủ nhật … cành lá nặng nề ướt át”. Và đoạn kết thúc – cũng là một đoạn
văn miêu tả cảm giác “Hiện giờ …gió lạnh”. Ngoài ra, ta còn bắt gặp những cụm từ
“chàng cảm thấy”, “nàng cảm thấy”… “có cảm tưởng như”, “nhận thấy rằng”, lặp đi
lặp lại. Ở Bướm trắng: cụm từ “Trương
nhận ra rằng”, “ Chàng thấy”, “Trương sung sướng nhận thấy”, “Trương có cảm tưởng
như”, “Thu bàng hoàng nhận thấy” được nhắc đến 34 lần… Qua đó, có thể tạm kết
luận: Đặc trưng của thế giới nội tâm của con người tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
chủ yếu được dệt bằng những cảm giác. Với tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, thế giới
cảm giác trở thành nét đặc trưng của phương thức tự sự mới. Thế giới của cảm
giác trở thành chủ thể và mang những đặc điểm nổi bật:
2.1. Thế giới cảm giác của con người tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn là một thế giới nội tâm độc lập.
Tâm hồn con người ở tiểu thuyết Tự lực văn đoàn có thể rung lên bất cứ lúc nào
khi đối diện với thế giới xung quanh: “Dũng mở cửa sổ ra hiên đứng… Dũng tưởng
như đương chìm vào trong màn trời có làn nước phủ qua” (Đôi bạn)… Tâm hồn nhân
vật có rất nhiều những cảm giác tưởng tượng, mơ mộng, “nhớ lại”, “hồi tưởng lại”,
“nghĩ đến”,… càng chứng tỏ thế giới nội tâm phong phú, lập thể.
2.2. Những cảm giác được miêu tả là những cảm giác
mong manh, nhẹ nhàng, thầm kín, nội tại nó thuộc phần
“mờ tối” bí mật sâu thẳm của tâm hồn. Loan trong Đôi bạn mỗi lần nghĩ đến Dũng, nàng lại thấy lòng mình “xao xuyến
như đám lá vàng gần đến ngày rụng trước một cơn gió thu mạnh và đột ngột”… song
cũng có rất nhiều cảm giác mãnh liệt: Nhung (Lạnh lùng) khi nghĩ đến người mình
yêu “tâm hồn rạo rực và cảm động một cách mãnh liệt.
2.3. Thế giới cảm giác là một thế giới đầy biến động
hư ảo với nhiều cung bậc, những cảm giác bất ngờ, vô cớ, trái ngược.
Nếu Nam trong tiểu thuyết Đẹp đã có
lúc sống trong nhiều cảm giác bất ngờ: “tự nhiên Nam vui và sung sướng” thì trạng
thái ở Trương (Bướm trắng) diễn ra
thường trực. Trong tâm hồn Trương đầy ắp những cảm giác không duyên cớ tự nhiên
xuất hiện: “Dẫu sao một nỗi vui rất nhẽ đương âm thầm trong lòng chàng mà nỗi
vui ấy không phải vì sắp gặp nhau, nỗi vui ấy tự nhiên đến không có một duyên cớ
gì rõ rệt. Bất giác chàng hơi lo sợ nghĩ đến những cái vui đột ngột vô cớ hồi chưa khỏi bệnh lao”…
2.4. Thế giới cảm giác bên cạnh những cảm giác vật
chất còn có cảm giác tinh thần (cảm giác lương tâm)
– nhân vật có khả năng tự lắng lọc tâm hồn mình. Tuyết (Đời mưa gió) là một cô gái say mê cuộc sống tự do phóng đãng nhưng
từ đáy sâu của tâm hồn mình Tuyết không phải không nhận thấy “nàng chỉ là một đứa
giang hồ man trá, phản trắc, đắm mình trong vực sâu mà không để ai cứu vớt”.
Tâm hồn con người với những trạng thái cảm xúc đa dạng, mâu thuẫn, bất ngờ, những
cảm xúc mạnh mẽ xen lẫn những cảm giác thoảng qua, những ham muốn nhục dục mãnh
liệt nhưng kín đáo đồng thời cũng đầy ắp những càm giác hổ thẹn của lương tâm:
sự ghê tởm chính mình muốn nâng đỡ con người lên, vượt khỏi cái tầm thường. Đó
là chất nhân văn sâu đậm mà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn mang lại.
Cảm giác về người khác
là một nét mới của con người Tự lực văn đoàn mà trước đó chưa có. Ngọc (Hồn bướm mơ tiên) ngay từ lúc gặp chú tiểu
Lan đã cảm nhận được chú không phải là một chú tiểu bình thường qua “làn da trắng
mát, tiếng nói dịu dàng”. Loan trong Đoạn
tuyệt trong sự xa cách ngà dặm của tình yêu li biệt với Dũng vẫn “cảm thấy
rõ hết cả cái mãnh liệt của đời Dũng, một cuộc đời đắm đuối trong sự mê man
hành động”…
Thiên nhiên trong Tự lực văn đoàn
hầu như luôn được thể hiện qua cảm giác của nhân vật như là một tiếng nói khác,
góp phần bộc lộ nội tâm nhân vật: “Đã lâu lắm chàng ngồi lặng im mê man như
đang ở trong một giấc mộng. Gió trên sông càng về đêm càng lạnh, hiu hắt thổi lọt
vào khoan. Tiếng nước róc rách vỗ vào mạn thuyền như tiếng nói của đêm thanh
thì thầm kể lể với Dũng những nỗi nhớ nhung thương tiếc” (Đoạn tuyệt)… Thiên nhiên ở đây còn là thiên nhiên hưởng thụ, nhân vật
dường như luôn mở rộng các giác quan để hưởng thụ thiên nhiên như một nguồn lạc
thú. Loan (Đoạn tuyệt) trong những giây phút nặng nề đứng trước mộ con vẫn “đưa
mắt nhìn ra cánh đồng ruộng, phồng ngực hít mạnh giò xa thổi lại”… Thiên nhiên
là không gian lí tưởng để các vùng cảm giác tìm ẩn đâu đó có dịp giải bày, phơi
trải, nơi con người khám phá ra tâm hồn mình. Nam (Đẹp) “nhìn cảnh vật lờ mờ dưới
ánh trăng” cũng “gợi trong lòng chàng một nỗi buồn vô cớ”…
Tóm lại, có thể trong một số nhân vật
cụ thể việc miêu tả tâm lí chưa thành công nhưng xét trong toàn bộ thì các tác
giả đã miêu tả một thế giới nội tâm mang chất lượng cảm giác mới.
3.
Đặc
trưng xã hội lịch sử của thế giới cảm giác trong con người của Tự lực văn đoàn
Thế giới của cảm giác con người Tự lực
văn đoàn trước hết là thế giới của những vùng cảm giác êm ả - nhẹ nhàng. Hầu
như thế giới nội tâm con người là thế giới của những vùng cảm giác: êm ả, êm
ái, êm dịu, nồng nàng, ngây ngất, sung sướng, mơ màng, lâng lâng. Những cụm từ chỉ những vùng cảm giác này luôn
xuất hiện trong thế giới tình cảm của các nhân vật được lặp đi lặp lại nhiều lần
trong mỗi cuốn tiểu thuyết. “Thơ thấy lòng êm ả… Nàng cảm thấy tâm hồn nhẹ
nhàng như làn mây, một nỗi vui không cội rễ rung động trong lòng khiến nàng xao
xuyến muốn nhảy múa hay cất tiếng hát vang” (Con đường sáng). Còn thế giới tình
yêu là thế giới của những cảm giác ngây ngất, tê mê, thần tiên, sung sướng, là
thế giới tràn đầy hương thơm và ánh sáng. “Nàng nghĩ đến lúc ngồi với Nghĩa
ngoài vườn tối, không khí nặng mùi thơm ngây ngất của các thứ hoa nở ban đêm,
hai người cầm lấy tay nhau yên lặng như trong giấc mộng” (Lạnh lùng). Thế
nhưng, trong thế giới tình yêu đó con người luôn sống trong những mộng tưởng
tương lai đẹp đẽ về hạnh phúc, về ngày mai. Nhân vật Dũng trong Đôi bạn luôn thấy “hiện ra trước mắt cảnh
tượng tưng bừng của bao nhiêu mùa thu sáng đẹp chưa đến trong đời chàng và đời
Loan”. Việc miêu tả cảm giác êm dịu, nhẹ nhàng còn được thể hiện qua việc miêu
tả không gian và thời gian. “Một buổi chiều về cuối năm, một buổi chiều êm như
một giấc mộng; mấy cây thông ở đầu hiên nhà đứng lặng yên đợi gió” (Đoạn tuyệt)...Ánh
sáng không gian được miêu tả trong các tác phẩm bao giờ cũng là “ánh nắng êm dịu”
hay “ánh trăng”. Hương thơm
trong tác phẩm thường
là hương thơm êm dịu của các loài hoa đồng nội: hoa lý, hoa nhài, hoa khế,…
Thế giới nội tâm con người là một thế
giới con người thích thưởng thức, ngắm nghía mình nhiều hơn, luôn hướng đến những
điều đẹp đẽ, lý tưởng. Nét đặc trưng của con người Tự lực văn đoàn chính là con
người cá nhân hay chính là sự hưởng thụ cá nhân bằng cảm giác – những cảm giác
dịu, ngọt ngào, nhàn nhã của tầng lớp thanh niên tiểu tư sản. Đời sống của
Nhung trong Lạnh lùng: “Khi đi qua vườn nắng, nhìn bóng mình lướt trên cỏ,
Nhung nghĩ đến cái thú của những đôi tình nhân kề vai nhau dưới bóng cây để nói
chuyện”. Dù có sự cởi mở, tiếp nhận nét phương Tây nhưng đời sống nội tâm của
con người Tự lực văn đoàn chưa có những nét phức tạp. Nó chỉ dừng lại ở những
khát khao hướng tới nhưng điều đẹp đẽ, thanh khiết, lý tưởng chứ chưa có nhưng
dục vọng, những miền mờ tối (trong toàn bộ tiểu thuyết Tự lực văn đoàn chỉ có
nhân vật Trương trong Bướm trắng (Nhất
Linh) mang một dục vọng là có ý định giết Thu – người tình của mình – nhưng đó cũng chỉ là ý định, không phải hành động).
Đó chính là mặt giới hạn trong thế giới nội tâm của con người Tự lực văn đoàn
mà cũng là hạn chế của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn.
CHƯƠNG III: VẺ ĐẸP THỂ CHẤT
1.
Vẻ
đẹp hình thức là yếu tố của giá trị cá nhân
Có thể nói, lần đầu tiên trong văn học,
ở tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, con người đã ý thức công khai rằng sắc đẹp tự
thân là một yếu tố của giá trị cá nhân. Con người trong tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn ngoài việc công khai khẳng định vai trò của cái đẹp hình thức trong cuộc sống:
Thư – nhân vật trong tiểu thuyết Đẹp – cũng có quan niệm “Sống là cạnh tranh mà
lúc có sắc đẹp bên mình là lúc mình sống nhất, không cạnh tranh sao được”; mà
còn xem sắc đẹp là yếu tố quan trọng không thể thiếu của lớp người trẻ tuổi
trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, là điều để họ tự hào. Đối với con người Tự lực
văn đoàn, sắc đẹp là yếu tố đầu tiên gây thiện cảm. Các nhân vật nữ trong tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn đều được miêu tả rất xinh đẹp. Tuyết trong Đời mưa gió dường như đã nói hộ tầng lớp
thanh niên thời đại mới “Phàm là thiếu niên thì ai đứng trước ba thứ này mà
không cảm động, mà không vui lòng: là một tủ sách hay, một cảnh thiên nhiên đẹp...
và một...một trang thiếu phụ xinh đẹp và có duyên”. Sắc đẹp cũng là ấn tượng đầu
tiên mang đến cảm giác tình yêu: Phong (Nắng
thu) “trong khi nô đùa quá sỗ sàng đã thấy ngượng nghịu bẽn lẽn” vì “càng
ngày Phong càng cảm thấy Trâm xinh đẹp hẳn lên”…
Như vậy, ý thức được sắc đẹp là một
yếu tố của giá trị cá nhân con người tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Họ luôn có ý
thức làm đẹp cũng như phô diễn sắc đẹp của bản thân mình. Hồng (Thoát ly) luôn ao ước có cái cười “sáng
và tươi” nên dù bị bà dì ghẻ ngăn cấm nàng vẫn trốn ra tỉnh để “cạo răng trắng”.
Và ý thức này có lẽ chưa thể có được ở con người trong văn học trung đại – con
người chỉ lo chú trọng đến việc hoàn thiện con người đọa đức, con người chức
năng của mình nhiều hơn.
2.
Đặc
trưng của việc thể hiện vẻ đẹp thể chất trong tiểu thuyết TLVĐ
2.1.
Sự cảm nhận vẻ đẹp cơ
thể
Việc
thể hiện vẻ đẹp thể chất của con người từ lâu đã xuất hiện trong văn học Việt
Nam nhưng ở văn học của Tự lực văn với nhu cầu mới của con người cá nhân đô thị,
việc thể hiện vẻ đẹp mới mang những đặc trưng mới. Việc thể hiện vẻ đẹp thể chất
dường như luôn gắn liền với nhu cầu giải phóng con người cá nhân – nhu cầu thưởng
thức. Vì thế đặc điểm đầu tiên khi miêu tả vẻ đẹp thể chất là sự chú ý miêu tả
vẻ đẹp cơ thể trong tính chất trần thế, cảm tính và cá nhân… Tất cả các nhân vật
nữ trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn điều được miêu tả là rất đẹp nhưng sắc
đẹp đó không miêu tả trực tiếp bằng ngôn ngữ của người kể chuyện mà chỉ được
miêu tả một cách gián tiếp thông
qua sự cảm nhận trực tiếp của các nhân vật khác hoặc chính nhân vật đó cảm nhận
về sắc đẹp của mình. Nhưng mà dù có được miêu tả qua con mắt của nhân vật nào
thì tác giả đầu tiên luôn chú ý là sự miêu tả những đường nét gây ấn tượng ở vẻ
đẹp cơ thể. Vẻ đẹp của Lan trong “Hồn bướm mơ tiên” gây chú ý cho Ngọc là vẻ đẹp
của “nước da trắng mát”. Vẻ hấp dẫn của Nhung (Lạnh lùng) qua sự chiêm ngưỡng của người bạn tình là sự hấp dẫn của
khuôn mặt “diễm lệ, tươi sáng của hai con mắt long lanh”…
Khi miêu tả vẻ đẹp của các nhân vật, các tác
giả không miêu tả một cách tập trung – nghĩa là khi nhân vật xuất hiện thì tác
giả không đi ngay vào việc miêu tả một cách trọn vẹn vẻ đẹp ngoại hình của nhân
vật một lần cho xong rồi mới chuyển qua việc khác. Vẻ đẹp của các nhân vật hiện
ra từ từ ở những đường nét ấn tượng và gợi cảm giác thưởng thức. Có thể nói đây
là một sự tiến bộ về bút pháp, nghệ thuật miêu tả. Vẻ đẹp của của Tuyết (Đời mưa gió) không hiện ra ngay một lúc
mà chỉ hiện ra qua sự cảm nhận bất chợt của Chương ở những thời điểm khác nhau.
Vẻ
đẹp thể chất luôn được thể hiện kết hợp với những diễn biến tâm lí: vì thế nó là
vẻ đẹp động chứ không phải vẻ đẹp tĩnh. Tương ứng với sự vận động tâm lí là sự
thay đổi ngoại hình. Ví dụ hình ảnh Loan trong Đôi bạn “Loan táy máy tước những
lá già ở bó rau dền. Nét mặt nghiêm trang và hai con mắt hơi buồn làm cho nàng
có một vẻ đẹp khác hẳn mọi ngày”
2.2.
Vẻ đẹp mang tính lí tưởng
Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn coi vẻ đẹp
thể chất là một trong những yếu tố đề khám phá con người. Các tác giả luôn chú
ý gắn sự thể hiện vẻ đẹp thể chất với vẻ đẹp tinh thần. Chúng có sự thống nhất
biện chứng với nhau. Hầu hết các nhân vật nữ trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
không chỉ đẹp mà còn có những phẩm chất tinh thần khác. Lan trong Hồn bướm mơ tiên không chỉ “xinh đẹp” mà
còn “thông minh đỉnh ngộ”
Trong
tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, có một điểm đáng chú ý là khi miêu tả vẻ đẹp thể
chất, các tả giả luôn chú ý miêu tả đôi mắt của các nhân vật. Nó luôn là sự diễn
tả tâm hồn của nhân vật. Đôi mắt Mai trong Nửa
chừng xuân với “quầng mắt đen sâu hoắm càng làm tăng vẻ rực rỡ long lanh của
hai con ngươi sáng dịu dàng như hai ngôi sao lấp lánh sau làn mây mỏng”. Tình
yêu của hai người bạn tình thường được diễn tả bằng đôi mắt. Tình yêu nồng nàng
của Ngọc – Lan (Hồn bướm mơ tiên) người
đọc chỉ cảm nhận được qua ánh mắt họ: “Hai người nhìn nhau, bóng trăng khuyết rọi
đầu cành, lá thông thưa nhặt, cỏ xơ xác, mặt đồi lấp lánh hai giọt sương…”.
3.
Cái
đẹp mang tính chất đô thị
Một trong những đặc điểm của việc thể
hiện vẻ đẹp thể chất trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là quan tâm tới miêu tả
trang phục, trang điểm. Văn học Tự lực văn đoàn vừa phản ánh sự thay đổi của
thanh niên nam nữ thời bấy giờ vừa nhân lên những ảnh hưởng của nó. Bởi vậy việc
quan tâm đến trang phục, trang điểm không chỉ có giá trị làm đẹp theo nghĩa thông thường mà là sự làm đẹp theo
một quan niệm mới có ý nghĩa xã hội. Song đây cũng là điều có tính hai mặt. Vũ
Trong Phụng đã chế giễu trong Số đỏ lối
Âu hóa tầm thường với kiểu áo đợi chờ, hững hờ, dậy thì… Quan điểm của Tự lực
văn đoàn đúng đắn hơn, chú ý tới cái đẹp trong sáng lành mạnh
Trong khi chú ý tới việc trang điểm,
trang phục, các nhân vật Tự lực văn đoàn còn luôn chú ý đến vẻ đẹp mang tính thời
đại và đô thị. Một người bạn tốt của Minh trong Gánh hàng hoa đã khuyên Liên (vợ của Minh) sửa sang lại nhan sắc bẳng
cách trang điểm và thay những bộ áo quần quê mùa bằng những bộ trang phục tân
thời để giữ tình yêu của chồng.
Việc thể hiện vẻ đẹp thể chất trong
tiểu thuyết Tự lực văn đoàn luôn gắn liền với nhu cầu sống của con người cá
nhân đô thị nên nó mang những đặc trưng mới. Nó mang tính vật chất cụ thể nhưng
vẫn còn mang nhiều tính chất lí tưởng hóa. Các tác giả theo tưởng tượng nhiều
hơn là quan sát nên sắc đẹp thường có “mẫu số chung”, thường lặp lại nên vì thế
nó không để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn người đọc. Về mặt nào đó, sự cá
tính hóa trong việc miêu tả chân dung, ngoại hình trong tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn còn chưa đạt đến tầm của văn học hiện thực phê phán với những bức chân
dung về ngoại hình trong trang viết của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng…
Tóm lại, vẻ đẹp thể chất trong tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn là phương diện tiêu biểu nhất cho con người cá nhân đô
thị. Vẻ đẹp thể chất đã thể hiện ý thức mới về giá trị con người, một trình độ
mới về cảm nhận con người.
CHƯƠNG
IV: NGÔN NGỮ VĂN HỌC
1.
Sự
đổi mới câu văn xuôi:
Trước
hết, tính hiện đại của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là ở sự đoạn tuyệt với những
điển tích sáo ngữ, những câu văn biền ngẫu, những câu văn với lối ngữ pháp dài
dòng trước đó để mở ra một loại hình câu văn xuôi mới. Một loại câu văn không
chỉ gọn gàng, giản dị dễ hiểu mà còn có khả năng diễn đạt được những tư tưởng
tình cảm của con người cũng như những khái niệm mới của xã hội Việt Nam. Nhất
Linh đề cao lối văn giản dị; theo tinh thần đó ta thấy từ tiểu thuyết Nho Phong
của ông viết năm 1925 đến tiểu thuyết viết từ sau 1932 đã có một sự “lột xác”.
Cũng cùng tả về cảnh hoàng hôn xuống
và lúc bình minh lên, nhưng với Nguyễn Trọng Thuật là một lối văn cổ kính, lối
nói văn hoa, trang trọng, dài dòng. Còn với Khái Hưng cảnh biển đã được vẽ lên
như một bức tranh không rườm rà mà đủ cả màu sắc, với câu văn sáng sủa, giàu chất
tạo hình. Ngoài ra trong Quả dưa đỏ ta
còn gặp rất nhiều điển tích Hán-Việt phải giải thích. Và có lẽ không phải chỉ
có Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật
mà ngay cả tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách và tiểu thuyết Tiền bạc bạc tiền của Hồ Biểu Chánh cũng
đầy những câu văn biền ngẫu đôi ý, đối vần. Đến tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn
câu văn không những không dùng nhiều điển tích Hán-Việt, câu văn biền ngẫu mà
còn do áp dụng cú pháp Tây phương nên câu văn đã gọn gàng, dễ hiểu và hiện đại
lên rất nhiều. Việc áp dụng cú pháp Tây phương trong câu văn của tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn thể hiện một trình độ tư duy mới bởi vì “mỗi hệ thống ngữ pháp
ngoài việc phản ánh mối quan hệ nội bộ của ngôn ngữ chứa đựng nó còn phản ánh cả
trình độ về tư tưởng, về khoa học kĩ thuật của dân tộc ở giai đoạn được nói đến”
2.
Nhãn
quan ngôn ngữ mới:
Do viết về tầng lớp trí thức tiểu tư sản cũng như thanh niên học sinh mới
lớn và chủ yếu để phục vụ tầng lớp đó trong buổi giao thời Âu –Á, vì thế bắt buộc
nó phải sáng tạo ra “một lớp sóng ngôn từ mới” phù hợp với đối tượng mà nó phản
ánh cũng như công chúng mà nó phục vụ.
Một
lớp ngôn từ mới mang đậm chất đô thị xuất hiện. Đô thị ngay từ trong tên tác phẩm:
Hồn bướm mơ tiên, Đoạn tuyệt, Thoát ly…rồi
đến nhân vật như Dũng, Tuyết, Lan, Chương… chứ không còn là những tên dân dã,
quê mùa như Thị Nở Chí Phèo nữa. Chất đô thị ở đây là thứ đô thị “ta một nửa, tây một nửa” nên vẫn mang
tính chất thuần khiết của đô thị phương Đông.
Ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn mang đậm phong cách
tiểu tư sản. Đó là ngôn ngữ nhiều lí lẽ của những con người tiểu tư sản thời kì
đầu mang đậm chất lạc quan luôn ý thức về quyền lợi và vị trí cá nhân trong xã
hội.
Trong đó, các tác giả của Tự lực văn
đoàn luôn chú ý sử dụng nhiều dạng thức
ngôn ngữ như ngôn ngữ kể, ngôn ngữ đối thoại và đặc biệt nhất là ngôn ngữ tả.
Việc sử dụng nhiều dạng thức ngôn ngữ không chỉ làm cho nhân vật được khắc họa
cụ thể sinh động mà qua đó người đọc còn có thể thấy được thế giới nội tâm nhân
vật. Điều đó được thể hiện trong các tiểu thuyết tình yêu. Việc sử dụng ngôn ngữ
miêu tả đã thể hiện được các cung bậc khác nhau và nhiều sắc màu đa dạng của
tình yêu. Trong khi sử dụng ngôn ngữ tả, các tác giả còn chú ý sử dụng rất nhiều
các từ điệp vần, điệp âm, điệp từ và các từ lấp láy. Việc sử dụng các từ điệp
và từ lấp láy này không chỉ diễn tả được cung bậc của tình yêu như mơ màng, rạo
rực, thổn thức, mong mỏi …cũng như sắc màu đa dạng của cuộc sống nội tâm như:
khoan khoái, nghẹn ngào, nơm nớp…mà còn cho ta thấy diện mạo nhân vật được soi
sáng từ bên trong cho nên nhân vật dù chưa có cá tính song vẫn sống động. Ngoài
ra, nó còn làm tăng số lượng từ Thuần Việt, tăng sắc thái biểu cảm trong câu văn của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
làm cho câu văn giàu tính nhạc, chất họa và thơ.
Với những đặc tính trên, ngôn ngữ tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn đã đạt
đến sự tinh tế, trong sáng và giàu khả năng biểu cảm. Song đó cũng chỉ là thứ
ngôn ngữ mẫu mực của một thời những nét đặc trưng riêng của phương pháp sáng
tác lãng mạn: sạch sẽ, bóng bẩy và ít bóng dáng của đời sống thực tế.
LỜI KẾT
THÚC
GS
Nguyễn Huệ Chi nhận định: “Trong lĩnh vực văn học, đóng góp của Tự lực văn đoàn
có vai trò đáng kể. Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam hiện đại thực sự
hình thành và ghi được những thành tựu cơ bản nhất thông qua hoạt động của văn
đoàn này. Phải bắt đầu từ đây, thơ và tiểu thuyết mới đi vào thế giới bên trong
nhân vật, giúp người đọc khám phá trực diện vẻ đẹp của cái "tôi" và tạo
ra cách đọc "phản tỉnh", tức là nhìn sâu vào cõi lòng mình. Về hình
thức, tiểu thuyết của văn đoàn đã vượt ra khỏi phạm trù văn học "giao thời"
(30 năm đầu thế kỷ 20), có cấu trúc mới mẻ, trong đó quy luật tâm lý thay cho lối
trần thuật một giọng của người kể chuyện. Câu văn trong văn xuôi đã trở nên
trong sáng, chuẩn mực, giàu khả năng biểu cảm tuy có lúc còn đơn điệu. Cùng với
việc đào sâu tâm lý nhân vật, thiên nhiên cũng trở thành một đối tượng thẩm mỹ...”
(Từ điển văn học). Qua đó, ta có thể thấy rằng: Những đóng góp của Tự lực văn
đoàn với văn học nước nhà, nhất là với quan niệm mới về con người đã để lại một
ấn tượng sâu sắc cho cuộc cách tân về văn học nghệ thuật, từ trung đại sang hiện
đại với những bước chuyển rất đáng ghi nhận.
Thứ
nhất, đó là sự xuất hiện của hình ảnh con người cá nhân. Con
người cá nhân trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là một đỉnh cao của hành trình
tự ý thức cá nhân trong xã hội và văn học Việt Nam hiện đại. So với văn học
trung đại, quan niệm về con người của Tự lực văn đoàn có nhiều cách tân đổi mới.
Một trong những cách tân quan trọng về nội dung tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là
thay đổi cách nhìn về con người. Con người cá nhân được đề cập đến ở một cấp độ
cao hơn, không đơn thuần chỉ là nhu cầu tình cảm của con người mà nó là một vấn
đề có ý nghĩa xã hội, ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Trong đó con người cá nhân được
đề cập đến ở ba cấp độ như sau: cấp độ một là xung đột của con người cá nhân với
gia đình truyền thống; cấp độ hai là con người cá nhân tìm sự giải thoát trong
tình yêu, trong thế giới nội tâm hay trong những ước mơ về cải cách xã hội; cấp
độ ba: Ý thức cá nhân cực đoan đòi hỏi bản năng tự do đứng trên hoặc bất chấp
các quan hệ xã hội.
Thứ
hai, thế giới nội tâm con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thực sự là một
nét vẽ ấn tượng trong bức tranh văn học thời bấy giờ. Ảnh hưởng bởi tiểu thuyết
Pháp, Tự lực văn đoàn bắt đầu miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật. Đặc biệt
đi vào miêu tả thế giới cảm giác. Thế giới cảm giác của con người là một thế giới
nội tâm độc lập, những cảm giác được miêu tả là những cảm giác mong manh, nhẹ
nhàng, thầm kín, thuộc phần “mờ tối” của tâm hồn nhưng đồng thời cũng đầy biến
động hư ảo với nhiều cung bậc. Bên cạnh những cảm giác vật chất còn có cảm giác
tinh thần (cảm giác lương tâm), nhân vật có khả năng tự lắng lọc tâm hồn mình,
và đặc biệt là họ cảm giác về người khác. Thiên nhiên trong tác phẩm của Tự lực
văn đoàn hầu như luôn được thể hiện qua cảm giác của nhân vật như là một tiếng
nói khác, góp phần bộc lộ nội tâm nhân vật.
Thứ
ba, quan niệm về vẻ đẹp thể chất cũng có sự thay đổi. Lần đầu tiên, vẻ đẹp thể
chất được xem như yếu tố khá quan trọng tạo nên giá trị con người. Con người
trong Tự lực văn đoàn cảm nhận cơ thể một cách trần tục hơn và toàn diện hơn. Vẻ
đẹp thể chất luôn gắn liền với vẻ đẹp tâm lí và mang tính chất lý tưởng hóa.
Hơn nữa, vẻ đẹp bên ngoài của các nhân vật đậm màu sắc đô thị, gắn liền với sự
thay đổi của thời đại.
Thứ
tư, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn có nhiều sự đổi mới về
ngôn ngữ văn học. Tính hiện đại được
thể hiện ở sự đoạn tuyệt với những điển tích sáo
ngữ, những câu văn biền ngẫu, những câu văn với lối ngữ pháp dài dòng trước đó
để mở ra một loại hình câu văn xuôi mới, gọn gàng, giản dị, dễ hiểu và có khả
năng diễn đạt những tư tưởng, tình cảm của con người. Bên cạnh đó, ngôn ngữ
trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn mang đậm phong cách tiểu tư sản lạc quan,
luôn ý thức về quyền lợi và vị trí cá nhân trong xã hội. Các tác giả luôn chú ý
sử dụng nhiều dạng thức ngôn ngữ như ngôn ngữ kể, ngôn ngữ đối thoại và đặc biệt
là ngôn ngữ tả. Với những đặc tính trên, ngôn ngữ trong các tiểu thuyết Tự lực
văn đoàn đã đạt đến sự tinh tế, trong sáng và giàu khả năng biểu cảm. Vì vậy,
ta có thể khẳng định rằng: những đổi mới về quan niệm con người trong các sáng
tác của Tự lực văn đoàn đã để lại ấn tượng sâu sắc cho cuộc cách tân văn học
nghệ thuật của nước nhà.
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
1. Lê Thị Dục Tú (1997), Quan niệm về con người
trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, NXB Khoa học xã hội Hà Nội
2. Nhất Linh (1989), Bướm trắng, NXB Tổng hợp
An Giang
3. Nhất Linh (2007), Đoạn tuyệt, NXB Văn học
4. Khái Hưng (2014), Hồn bướm mơ tiên, NXB Hội
nhà văn
5. Khái Hưng (2006), Nửa chừng xuân, NXB Hội
nhà văn
6. Khái Hưng và Nhất Linh (1989), Đời mưa
gió, NXB Đồng Tháp
7. Hoàng Đạo (1970), Con đường sáng, NXB Khai
trí
8. Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam
(1930-1945), NXB Giáo dục
9. Trang web tham khảo: