KHOA NGỮ VĂN
@&?
CHỦ
NGHĨA NHÂN ĐẠO
TRONG
THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG
GVHD: LÊ VĂN LỰC
TRƯỜNG
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO
TRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG
SVTH:
NHÓM 1
1. Bùi Thị Nguyệt K38.601.094
2. Huỳnh Thị Phô K38.601.103
3. Lương Thị Phương K38.601.110
4. Võ Thị Thúy Sinh K38.601.113
5. Thông Thị Kim Thanh K38.601.119
6. Phạm Thị Hồng Nhung K38.601.100
7. Hồ Thị Kiều Trinh K38.601.158
8. Hồ Thị Thanh Thảo K38.601.125
9. Dịch Thị Hồng Ánh K38.601.003
10. Hà Phương Ly K38.601.072
11. Lưu Thị Tuyết Nhi K38.601.097
12. Kim Thị Duyên K38.601.022
13. Nguyễn Thị Hồng Gấm K38.601.026
14. Nguyễn Chung Cảnh K38.601.006
15. Dương Thị Huyền K38.601.051
16. Trịnh Thị Ngân K38.601.087
MỤC LỤC
A.
MỞ
ĐẦU
Tác phẩm văn học không chỉ là đứa con tinh thần của nhà
văn mà còn là con đẻ của thời đại và thơ Hồ Xuân Hương đã thể hiện thành công mối
quan hệ đó. Bà là một trong những đại thi hào của dân tộc Việt Nam được người đời
ưu ái với cái tên “Bà chúa thơ Nôm”, người đã nói lên tiếng nói cho những số phận
bi ai trong hoàn cảnh loạn lạc khi chế độ phong kiến đã bước vào thời kì suy
thoái không gì cứu vãn được.
Tiếng thơ của Xuân Hương là tiếng lòng thổn thức của một
trái tim biết yêu thương, đồng cảm với số phận của những con người trong xã hội
phong kiến. Vâng thơ hay chính là tiếng lòng mang nặng tình đời. Thơ Xuân Hương
là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ với nỗi niềm thiết tha nghẹn ngào, cay đắng
không chỉ của riêng bà mà còn là của tất cả những người phụ nữ bất hạnh trong
xã hội phong kiến xưa.
Bà đã nói lên tiếng nói nhân đạo, vẽ ra trước mắt người đọc
số phận của những người bất hạnh, để rồi trái tim ta ngân lên cùng nhịp đập với
số phận đau thương của họ. Hồ Xuân Hương là người đầu tiên trong lịch sử dân tộc
đã nói lên tiếng nói yêu thương cho số phận những người phụ nữ bất hạnh.
Trên thi đàn văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương – “Bà chúa
thơ Nôm” được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho trào lưu nhân đạo chủ
nghĩa giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX. Với hai khuynh hướng
nổi trội, ít nhiều đối lập nhau là thơ tình cảm và thơ trào phúng, nhà thơ đã
thể hiện nội dung nhân đạo sâu sắc thể hiện một trào lưu nhân đạo chủ nghĩa lớn.
I.
Vài nét về nhà thơ
1.
Tiểu sử nhà thơ
Cho
đến nay, có rất nhiều ý kiến lí giải, xác định những vấn đề về cuộc đời và thơ
văn của “Bà chúa thơ Nôm” (chữ dùng của Xuân Diệu). Chưa ai có thể khẳng định
chính xác bà sinh vào năm nào, mất năm nào và sáng tác chủ yếu vào thời kì nào
(1). Theo nhiều nhà nghiên cứu, Hồ Xuân Hương sống và sáng tác vào khoảng cuối
thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Theo PGS.TS Hoàng Bích Ngọc, Hồ Xuân Hương quê gốc
ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Cha Hồ Xuân Hương là ông Hồ
Phi Diễn (1704 – 1787) đỗ sinh đồ năm 20 tuổi (2), chồng bà là Mai Sơn Phủ.
Nhiều
tài liệu cho thấy do hoàn cảnh gia đình nghèo túng, ông Diễn rời quê hương, ra
Bắc, sau đó ông lấy một người họ Hà, quê ở Bắc Ninh làm vợ lẽ và sinh ra Hồ
Xuân Hương.
Gia
đình Hồ Xuân Hương có lúc ở gần Hồ Tây (phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận), có
lúc về ở thôn Tiêu Thị, tổng Tiểu Túc, huyện Thọ Xương. Sau này, khi trưởng
thành Hồ Xuân Hương dựng một ngôi nhà ở gần hồ Tây lấy tên là Cổ Nguyệt đường (Theo
Từ điển văn học).
Hồ
Xuân Hương
là người ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo về mặt nhân sinh quan cũng như về
phương diện văn chương.
Bà một phụ nữ thông
minh, có học nhưng học không được nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với bạn bè
nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn, các nhà nho. Nữ sĩ còn là người
từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.
Những tưởng một phụ nữ
tài hoa có cá tính mạnh mẽ như bà sẽ được hạnh phúc nhưng cuộc đời lại không ưu
ái khi Hồ Xuân hương phải mang thân phận “bảy nổi ba chìm” nhiều bất hạnh. Bà lấy
chồng muộn, mà đến hai lần đi lấy chồng đều làm lẽ, hạnh phúc thì ngắn ngủi
mong man, cuộc sống riêng tư đa truân, giữa đường đứt gánh.
Đương thời bà là người quảng giao, quen biết và kết bạn với một số danh sĩ
trong đó có nhà thơ lớn của dân tộc, tác giả của Truyện Kiều – Nguyễn Du.
2.
Sự nghiệp văn học
Hồ
Xuân Hương nổi tiếng với những sáng tác thơ bằng chữ Nôm, tổng cộng chừng 50
bài. Ngoài ra theo nhiều nhà nghiên cứu bà còn là tác giả tập thơ Lưu Hương ký
(gồm 24 bài thơ chữ Hán và 26 bài thơ chữ Nôm).
Đánh
giá về thơ Hồ Xuân Hương, sách Tổng tập Văn học Việt Nam nhận định: “Thơ Hồ
Xuân Hương thường bộc lộ tài năng và trí tuệ của người phụ nữ trước những cơn
sóng gió của cuộc đời và thời cuộc, lớn tiếng đòi hỏi giải phóng phụ nữ thoát
khỏi những ràng buộc khắc khe phi lí của giáo điều phong kiến lạc hậu, bảo thủ;
nói lên khát vọng được sống, được bình đẳng, mang ý nghĩa phản kháng mạnh mẽ.
Tiếp nhận và phát huy những tinh hoa của dòng văn học dân gian, lời thơ của Hồ
Xuân Hương nhiều khi như lưỡi dao sắc nhọn đã xé toạc bộ mặt giả đạo đức của
nhiều kẻ tự mạo nhận là “quân tử”, “anh hùng”, góp phần hạ bệ nhiều thần tượng
chỉ có hư danh trong xã hội phong kiến”. (Tập 14, trang 835- 836 ).
B.
NỘI
DUNG
I.
Khái niệm nhân đạo
Nhân
đạo là một sợi chỉ đỏ xuyên xuốt văn học Việt Nam mọi thời đại, đó chính là
lòng yêu thương con người, nâng niu, quý trọng, đề cao con người, tin vào khả
năng vươn lên của con người, tạo điều kiện cho con người phát triển.
Nhân
đạo bao gồm cả nhân văn (giá trị, vẻ đẹp tinh thần của con người) và nhân bản (cái
gốc, cái bản chất của con người, đi sâu vào đời sống bản năng của con người đặc
biệt là đời sống tình cảm, xúc cảm).
Từ
thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX trào lưu nhân đạo chủ nghĩa xuất hiện và
phát triển mạnh mẽ do nhiều yếu tố như:
Sự
sụp đổ của giai cấp phong kiến và Nho giáo.
Nhờ
vào sự tiếp sức của phong trào nông dân khởi nghĩa.
Sự
ảnh hưởng của yếu tố dân chủ với vai trò của tầng lớp thị dân.
Tất
cả những điều đó đã làm nên một thời đại văn học rực rỡ với sự cảm thông và
tình yêu thương con người sâu sắc.
II.
Nội dung nhân đạo trong thơ Nôm Hồ Xuân
Hương
1.
Tiếng nói đả kích, tố cáo tội ác giai cấp
thống trị, vạch trần sự xấu xa, thối nát của xã hội phong kiến
Dưới
những ràng buộc của lễ giáo khắc nghiệt trong xã hội phong kiến, người phụ nữ
luôn phải chịu những thiệt thòi, đau đớn. Đến giai đoạn cuối của chế độ phong
kiến, tiếng nói sâu thẳm tâm hồn của người phụ nữ bị dồn nén bấy lâu nay đã có
cơ hội trào dâng ra ngoài. Đại diện cho những người phụ nữ bất hạnh ấy, Hồ Xuân
Hương đã phản kháng mãnh liệt bằng tiếng nói riêng của mình, kết hợp nhuần nhuyễn
với tiếng nói của nhân dân lao động bị xã hội phong kiến áp bức và chà đạp.
Tiếng
nói đả kích, tố cáo được nữ sĩ sử dụng thông qua công cụ cố hữu của truyền thống
văn học dân tộc cũng như khá phổ biến trên thế giới đó là tiếng cười châm biếm.
Một
điều đặc biệt là Hồ Xuân Hương đã sử dụng tiếng cười thông qua yếu tố “tục”. Tiếng
nói đả kích tố cáo táo bạo, quyết liệt ấy chủ yếu xoáy sâu vào giai cấp phong
kiến với những thành lũy đạo đức hà khắc đã dần mục rữa của nó.
Cái
cười đầu tiên mà Hồ Xuân Hương bật ra đó là để cười cợt chính bản thân mình.
Cũng vì “tiên trách kỉ, hậu trách nhân” và tiếng cười chính mình đó đồng thời
là lời thách thức, lời tố cáo. Chùm thơ “Tự tình” của nàng thơ đã thể hiện đầy
đủ điều đó:
Ấy
ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh !
(Tự tình I)
Tài tử, văn nhân ai đó tá ?
Thân này đâu đã chịu già tom.
(Tự tình II)
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.
(Tự tình III)
Tiếng
cười chính mình tuy không nhiều, nhưng ý nhị, mang ý nghĩa sâu sắc hàm ẩn những
chua xót thân phận hòa nguyện với sự phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt.
Nhà
thơ không chỉ cười mình mà còn cười người. Tiếng cười trong thơ Hồ Xuân Hương
chủ yếu tập trung vào đối tượng chính là bọn giai cấp thống trị với thói đạo đức
giả của chúng, phơi bày cái xác thân phàm tục vốn là cái bản chất.
Hồ
Xuân Hương vạch trần bộ mặt đạo đức giả của giai cấp phong kiến, đại diện là
vua chúa, quan lại, hiền nhân quân tử. Họ là mẫu người lí tưởng của xã hội
phong kiến với bao điều tốt đẹp, trong sạch, thanh cao, họ là những người mang
sứ mệnh truyền bá, hành xử đạo lí thánh hiền, giữ gìn kỉ cương xã hội. Thế
nhưng, bằng con mắt sắc sảo Hồ Xuân Hương đã xé toạc hết bộ phẫm phục lộng lẫy,
lộ ra chiếc áo đạo đức cụt cỡn với bộ mặt giả dối, trả họ về với lũ bịp bợm, dối
đời và dốt nát. Với tiếng cười châm biếm, Hồ Xuân Hương như sung sướng, hả hê
khi làm lộ ra sự thật cay đắng ấy.
Mát mặt anh hùng khi tắt
gió,
Che đầu quân tử lúc sa
mưa.
Nâng niu ướm hỏi người
trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã
sướng chưa?
(Vịnh cái quạt II)
Đối
tượng đầu tiên của bà đó chính là bọn vua chúa, những kẻ thay trời trị dân. Đã
từng là đối tượng của những anh đồ ghẹo gái, Hồ Xuân Hương càng hiểu sâu hơn bản
chất của những kẻ cầm quyền, tất cả chỉ là những kẻ mê hoa, háo sắc.
Hồng
hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu vua yêu một cái này.
(Vịnh cái
quạt I)
Vua
chúa là vậy mà quan thị còn đáng lên án hơn. Bọn quan thị tức là bọn thái giám,
ngày đêm hầu hạ bọn vua chúa chẳng ra gì. Xã hội đã giơ cao, đánh thẳng vào cuộc
sống trái lẽ của chúng, thậm chí trước cái dị hợm, quái gỡ, bà văng tục, bà chửi
đổng, bà cười mỉa mai:
Mười
hai bà mụ ghét chi nhau?
Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu?
Rúc rích thây cha con chuột nhắt,
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu.
Đố ai biết được vông hay trốc,
Còn kẻ nào hay cuống với đầu.
Thôi thế thì thôi, thôi cũng được,
Nghìn năm khỏi bị tiếng nương dâu.
(Quan
thị)
Chỉ
vì một chức quan, một địa vị, họ sẵn sàng vứt bỏ tất cả, kể cả tình yêu. Thật
đáng tức, đáng phải bị tố cáo, vạch mặt những con người chẳng biết trân trọng,
luôn xem người phụ nữ là một món đồ chơi tình cảm.
Đối
tượng được nữ sĩ châm biếm đả kích nhất vẫn là bọn “hiền nhân quân tử”. Những
việc làm lén lút, thậm chí những ý nghĩa “tiểu nhân” trong đầu chúng cũng bị xã
hội phát hiện và phơi bày ra ánh sáng. Xã hội đã bóc trần bộ mặt ngụy quân tử để
chúng ta nhận ra những kẻ giả dối ấy vẫn có những khao khát phàm tục, song vì
khoác áo đạo đức, chúng đành phải lén lút, phải ăn vụng. Những ý nghĩ mờ ám ấy
còn đáng ghê tởm hơn gấp trăm lần khi chúng bị phát hiện bởi nữ sĩ họ Hồ.
Đôi
gò Bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào nguyên suối chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở không xong.
(Thiếu nữ
ngủ ngày)
Hồ
Xuân Hương đã không ngần ngại khi vạch ra những đen tối của cái đầu trọc nhà
sư. Trong cái xã hội rối ren, nhà chùa đã không còn giữ được cái cung cách
nghiêm trang của nó, không ít kẻ đã lợi dụng nơi tu hành để làm những chuyện bậy
bạ, đó là lối tu hành giả dối.
Chẳng
phải Ngô, chẳng phải ta
Đầu thì trọc lóc áo không tà
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi
nấp sau lưng sáu bảy bà
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
(Sư
Hổ Mang)
Dẫu
nấp bóng Phật, dẫu cạo đầu trọc lóc, dẫu miệng có hi ha, tụng niệm thì Hồ Xuân
Hương vẫn nhận ra bao hành vi dâm đãng đang ẩn náu trong đó.
Chùa
chiền giờ đây không thể cho Hồ Xuân Hương tìm ra những vẻ đẹp đơn sơ, thanh
tĩnh nữa mà với bà đó chỉ là nơi làm rõ hơn bộ mặt giả tạo, cảnh ngược đời của
bọn sung đạo. Bà nhìn ra họ chỉ là những kẻ nho sĩ dốt nát, huênh hoang, ngổ
ngáo. Nhà thơ chỉ trích những kẻ học không ra gì, làm thơ mà chẳng ra thơ, lại
còn dám đề thơ ở chùa, ở miếu:
Dắt
díu nhau lên đến cửa chiền
Cũng đòi học nói, nói không nên
Ai về nhắn bảo phường lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền.
(Mắng học trò dốt
II)
Qua
thơ Nôm Hồ Xuân Hương, ta thấy cả một xã hội phong kiến thời bà bị chế giễu, đả
kích. Bà dùng tiếng cười, thông qua yếu tố tục, xoáy vào đời sống bản năng của
giai cấp thống trị để từ đó đả kích, tố cáo thói đạo đức giả của chúng.
2.
Bày tỏ lòng cảm thông, yêu thương với
con người đặc biệt là những số phận không may nhất là người phụ nữ.
Trong
văn học nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, Hồ Xuân Hương là một nhà
thơ nhân đaọ chủ nghĩa, bởi vì thơ bà trước hết là tiếng nói tâm tình của người
phụ nữ. Không phải người phụ nữ lầu son, gác tía, chinh phụ hay cung tần, mà là
người phụ nữ bình thường, người phụ nữ lao động có nhiều bất hạnh trong cuộc sống.
Có thể nói, ngoài văn hóa dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch
sử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói của những người phụ nữ ấy:
những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng căm hờn và những tiếng châm
biếm sâu cay.
Có
lẽ những người yêu thơ sẽ không thể nào quên nữ sĩ duy nhất trong 3 đại thi hào
dân tộc của Việt Nam – “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương. Có lẽ danh mệnh Bà chúa
thơ Nôm đã nói lên vị trí của bà trong thi đàn văn học Việt Nam.
Tiếng
thơ Xuân Hương là tiếng thơ của một người phụ nữ tài hoa, cá tính nhưng phải chịu
sự gò bó của lễ giáo phong kiến khắt khe, kìm kẹp. Bao khao khát, bao nguồn sống
mãnh liệt không được bộc lộ trong cuộc sống đã được bà gởi gắm cả vào trong
thơ. Thơ Xuân Hương là những nỗi niềm không chỉ của riêng tác giả mà của tất cả
những phụ nữ bất hạnh trong xã hội phong kiến thế kỉ XIV, thơ Xuân Hương là tiếng
nói tâm tình của người phụ nữ bình dân, lam lũ, của những số phận bất hạnh. Nhà
văn Banzac trong “Miếng da lừa” từng nói “Trên đời không có gì trọn vẹn hơn sự
bất hạnh” và nói như người đời, ông trời thường hay ích kỉ, ông chỉ ban cho một
số người được hạnh phúc, còn bất hạnh hầu hết ai cũng được hưởng, đặc biệt là
phận liễu yếu đào tơ, mỏng manh của những người phụ nữ sống dưới xã hội phong
kiến trong thời kì khủng hoảng suy thoái.
Hồ
Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ, bằng kinh nghiệm của cuộc đời chung và kinh
nghiệm một cuộc đời chẳng ra gì của mình, nhà thơ đứng về phía những người phụ
nữ bị áp bức. Trong thơ của mình, Hồ Xuân Hương hình như chỉ muốn nói đến nỗi
khổ đau riêng có tính chất giới tính. Viết về đề tài phụ nữ nhà thơ thường xoáy
sâu vào những ngóc ngách éo le của cuộc đời để nêu lên những bi kịch không kém
phần chua chát. Hồ Xuân Hương viết về nỗi khổ của người phụ nữ có “kiếp lấy chồng
chung”, hay nỗi khổ của người phụ nữ “ không chồng mà chửa”,…Trong bài Kiếp lấy chồng chung, nhà thơ vạch ra
làm lẽ chẳng qua chỉ là một thứ làm mướn, thậm chí còn tệ hơn là làm mướn nữa:
đó là thứ làm mướn không công. Xuân Hương nêu lên được một nét điển hình nổi bật
của chế độ hôn nhân phong kiến. Xã hội phong kiến bắt người phụ nữ phải chính
chuyên một chồng trong khi cho phép đàn ông có năm thê bảy thiếp. Trừ trường hợp
cá biệt, lấy vợ lẽ vì người vợ cả không có con trai “nối dõi tông đường”, thông
thường trong xã hội phong kiến lấy lẽ là để thỏa mãn cuộc sống dâm dục của bọn
địa chủ, đồng thời cũng để có thêm sức lao động. Đó là thuê nhân công mà không
phải trả tiền. Ý nghĩa phê phán sâu sắc trong thơ bà là ở đó. Và ý nghĩa ấy được
nhân lên rất nhiều lần, do chỗ người phụ nữ của Hồ Xuân Hương cố hết sức chịu đựng.
Năm
thì mười họa hay chăng chớ,
Một
tháng đôi lần có cũng không.
Cố
đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
Cầm
bằng làm mướn, mướn không công !
Và
đã không chịu đựng nỗi, bà đã thét lên.
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung !
Hồ
Xuân Hương nhận thức được cảnh bất công, ngang trái của việc lấy chồng chung,
nhà thơ lên tiếng chửi mắng quyết liệt, nhưng điều kiện xã hội phong kiến vẫn
cho phép nó nghiễm nhiên tồn tại. Lịch sử hạn chế nhà thơ không tìm được lối
thoát. Bài thơ kết thúc không mở ra một bước ngoặt nào cả, mà đóng lại bằng tiếng
thở dài bất lực.
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong!
Nhà
thơ không thể vượt lên trên hoàn cảnh xã hội, bất mãn với thực tại, bà nghĩ giá
gì ngày trước đừng lấy chồng! Đó là một cách nói chứ không phải một giải pháp
và tiếng thở dài của bà chỉ làm đậm thêm cái mỉa mai thực tại.
Đặc
điểm của thơ Hồ Xuân Hương là không bao giờ dửng dưng, lạnh nhạt. Nhà thơ luôn
có một trái tim cháy bỏng, nói đến cái gì là nói với tất cả sự xúc động chân
thành của mình. Khi giận dữ thì thét lên, mắng chửi, khi yêu thương thì đằm thắm,
ngọt ngào. Nếu bài Kiếp lấy chồng chung là
tiếng nói phẫn uất, chua xót với chế độ đa thê bất công mà người phụ nữ phải chịu
đựng thì bài Không chồng mà chửa lại
là một lời nói rất mực khoan dung, độ lượng đối với cảnh không may của họ.
Trong
xã hội phong kiến người phụ nữ chửa hoang là một tội lỗi tầy đình. Xã hội phong
kiến lấy việc lăng nhục con người để trả thù cho cái mà chúng gọi là “phá hoại
nhân cách”, “hết cả liêm sỉ”. Thật không có sự lệ thuộc nào hơn sự lệ thuộc của
người phụ nữ với xã hội phong kiến. Pháp luật, lễ giáo, tập tục, những “tam
cương ngũ thường”, “tam tòng tứ đức” đã hoàn toàn biến người phụ nữ thành một
thứ sở hữu của người gia trưởng, của người đàn ông. Họ bị tước hết mọi quyền lợi,
kể cả quyền được yêu và quyền đối với con cái. Trong hoàn cảnh như vậy, quan hệ
vợ chồng chưa chắc là quan hệ yêu đương và việc “không chồng mà chửa” chưa hẳn đã là chuyện bừa bãi, “trong bộc trên dâu”, mà nhiều khi lại là
một kết quả của tình yêu thật sự. Người phụ nữ “không chồng mà chửa” trong bài thơ Hồ Xuân Hương là trường hợp ấy.
Nàng nói với người tình của mình nửa như trách móc, nửa như tâm sự
Cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng !
Nàng
không coi việc làm của nàng là tội lỗi. Đó chỉ là chuyện “cả nể” đối với người tình và vì cả nể nên mới dở dang như vậy. Lễ
giáo, luật pháp phong kiến khắc nghiệt làm cho người tình không dám nhìn nhận kết
quả tình yêu của chàng. Chỗ nhút nhát ấy của bạn tình, người phụ nữ của Hồ Xuân
Hương cũng rất độ lượng
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng!
Nàng
chỉ yêu cầu một điều là nhìn nhận sự việc cho đúng đắn. Đây là chuyện tình,
chuyện nghĩa chứ không phải chuyện bướm ong trong chốc lát: “Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa”. Còn
kết quả của nó bạn tình không nhận, nàng xin đảm đương tất cả: “Mảnh tình một khối thiếp xin mang”.
Cuối
cùng người phụ nữ của Hồ Xuân Hương thấy không thể khuất phục được, Hồ Xuân
Hương còn mạnh dạn lên tiếng phản kháng lại những cái gọi là “khuôn vàng thước
ngọc” của Nho giáo đang đi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng, nàng đã ngẩng
cao đầu tuyên chiến với lễ giáo phong kiến bằng những lời lẽ hùng hồn, đanh
thép.
Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
Không có, nhưng mà có, mới ngoan!
Thái
độ của Hồ Xuân Hương bắt gặp thái độ của quần chúng nhân dân trong ca dao.
Không chồng mà chửa mới ngoan,
Có chồng mà chửa thế gian sự thường.
Cố
nhiên quần chúng nhân dân cũng như Hồ Xuân Hương không phải bênh vực cho quan hệ
bừa bãi của nam nữ, mà ở đây là cách nói “ăn
miếng trả miếng” có tính cách bóp chat trong lối đối thoại của nhân dân với
giai cấp phong kiến thống trị. Trong xã hội cũ, can đảm nhất cũng chỉ có Nguyễn
Dữ dám đề cập đến những cảnh nhục dục, những nhân vật dám vượt rào khỏi giáo điều
phong kiến qua hình tượng yêu ma không thực. Nhưng Xuân Hương lại cả gan đứng
ra bênh vực cho những người con gái dở dang ấy, dám ngang nhiên thừa nhận những
quy tắc đi ngược lại khuôn mẫu của lễ giáo phong kiến. Điều đó chỉ có ở bản
lĩnh, một trái tim tha thiết, nồng ấm sự cảm thông của một tâm hồn nữ sĩ.
Hồ
Xuân Hương là một nhà thơ thương yêu con người, yêu cuộc sống. Tình cảm chân
thành làm cho thơ Hồ Xuân Hương dường như lúc nào cũng che giấu bên trong một nụ
cười. Đối với Hồ Xuân Hương một nụ cười có ý nghĩa nhiều hơn những giọt nước mắt.
Tất nhiên nói thế không phải nước mắt không có ý nghĩa. Nhất là đối với những
giọt nước mắt chân thành và thông cảm như của một Nguyễn Du chẳng hạn, thì đó vẫn
là niềm an ủi lớn đối với con người, đó vẫn là một bằng chứng rằng con người
không phải tất cả là lang sói, mà còn có những tấm lòng. Song dù sao cũng phải thừa
nhận rằng khi trong cuộc sống nước mắt đã đọng lại thành sông, thành biển thì khóc
thêm vài giọt nữa cũng có ích gì ? Hồ Xuân Hương không muốn khóc, không muốn phủ
một màu đen lên cuộc đời vốn đã đen ngòm của những người đau khổ mà muốn đem đến
cho họ một nụ cười, giúp họ có nghị lực để sống và chống chọi với cuộc sống.
Nhà thơ sẽ bảo một bà lang khóc chồng.
Văng
vẳng tai nghe tiếng khóc gì,
Thương
chồng nên nỗi khóc tỉ ti
Sẽ
bảo một cô gái chồng chết:
Nín đi kẻo thẹn với non sông,
Ai
về nhắn nhủ đàn em bé !...
Sẽ
đem chút ánh sáng của lòng tin vào một lẽ công bằng và nhân đạo hơn để cho những
cô gái không chồng mà chửa tiếp tục sống, làm mẹ và làm người.
Không
có, nhưng mà có, mới ngoan !
Nhưng
đối với phụ nữ, Hồ Xuân Hương không phải chỉ cảm thông và bênh vực. Đặc biệt
hơn nữa nhà thơ còn hết sức ca ngợi, đề cao họ, tìm thấy vẻ đẹp thật sự chân
chính ở họ.
Trong
một loạt hình tượng nói về số phận bấp bênh, hẩm hiu của người phụ nữ như chiếc
bánh trôi nước “Bảy nổi ba chìm với nước
non”, con ốc nhồi “Đêm ngày lăn lốc
đám cỏ hôi”, hay quả mít “da nó xù
xì”,…nhà thơ chú trọng nêu bật lên cái đẹp bên trong, cái đẹp tâm hồn của họ.
Quả mít da nó xù xì nhưng “múi nó dày”.
Chiếc bánh trôi bảy nổi ba chìm và “rắn
nát mặc dầu tay kẻ nặn” nhưng “vẫn giữ
tấm lòng son”…Trong bài thơ Đề tranh
tố nữ, Hồ Xuân Hương ca ngợi người phụ nữ ở khía cạnh khác – ca ngợi tuổi
trẻ tươi mát, trắng trong của cô gái đang xoan.
Chị
cũng xinh mà em cũng xinh,
Đôi lứa như in tờ giấy trắng,
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh…
Và
trong bài Thiếu nữ, ngòi bút của nhà
thơ lại đi vào một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ về cái đẹp của họ: cái đẹp trong
cơ thể. Bài thơ là một bức tranh khỏa thân truyền thần sinh động.
Mùa
hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu
nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược
trúc biếng cài trên mái tóc,
Yếm
đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi
gò bồng đảo hương còn ngậm,
Một
lạch đào nguyên suối chửa thông.
Quân
tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở
không xong.
Không
phải bằng đường nét và màu sắc mà bằng một thứ ngôn ngữ trang trọng, bức tranh
khỏa thân của nhà thơ mới sinh động biết bao ! Có người cho đây là một cách nhảm
nhí của Hồ Xuân Hương, một thứ “dâm hay tục”. Nhưng bài thơ có gì là nhảm nhí,
có gì là dâm, là tục ? Ở đây người đọc chỉ thấy một thân hình cân đối, mĩ lệ của
người thiếu nữ, một quang cảnh nên thơ với những bồng đảo, đào nguyên… Bức tranh không hề khêu gợi một sự thèm khát
nào của dục vọng thấp hèn, mà chỉ đem đến cho người đọc những rung động thẩm mĩ
thanh cao.
Như
vậy thơ của Hồ Xuân Hương khi viết về người phụ nữ đó là những lời tâm tình
chân thành nhất. Hồ Xuân Hương viết về người phụ nữ với bao sự cảm thông, chia
sẻ, bênh vực về những đau khổ, tủi hờn, cực nhọc, tai tiếng của người phụ nữ bị
áp bức, bóc lột. Thơ bà xoáy sâu vào cả đời sống tinh thần lẫn thể chất của họ
cho thấy được những vẻ đẹp, những khát khao chân thật, đời thường, bình dị nhất
của người phụ nữ.
3.
Đề cao con người cá nhân đi sâu vào thế
giới nội tâm phong phú, phức tạp của con người khẳng định quyền sống của con
người
Một biểu hiện hiếm có, độc đáo của
con người cá nhân trong văn học Việt Nam thời kỳ này là con người bản năng
trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Đây là điều mà nhiều nhà nghiên cứu văn học thời
kỳ này đã khẳng định. Nguyễn Lộc viết: “Hồ Xuân Hương không giả dối, bà đã công
khai nói lên cái sự thật ấy. Thoả mãn cuộc sống bản năng cũng là một khát vọng
chính đáng của con người giống như bất cứ một khát vọng chính đáng nào; và
điều đáng chú ý hơn nữa ở nhà thơ này là đã công khai nói đến cuộc sống
bản năng, dù viết về những đề tài cốt để người ta liên tưởng đến chuyện
trong buồng kín của vợ chồng, nhưng bất cứ một bài thơ nào của bà cũng đều gợi
lên một cảm giác đẹp hiếm có. Và chính điều này đã nâng nhà thơ lên hàng
những nghệ sĩ lỗi lạc, chứ không phải là những kẻ tầm thường làm thơ, viết văn
với mục đích khiêu dâm”.
Ý thức về nhu cầu bản năng là biểu
hiện của ý thức cá nhân. Phân tâm học cho biết có một vô thức cá nhân sâu xa bao gồm tất cả những thúc đẩy của bản năng,
mà những cưỡng chế xã hội và văn hoá đã chôn vùi, “bịt miệng”, nhưng không huỷ
diệt được. Vô thức sâu xa bao gồm toàn thể những thúc đẩy nguyên thuỷ, những
thúc đẩy này tạo thành tính cảm tính (affectivité) cổ xưa của con người. Nhưng
cái làm cho vô thức được cá nhân hoá là những dấu vết của đời sống riêng tư của mỗi người, những biến cố nguyên
nhân của hiện tượng dồn ép. Nói chung hiện tượng công khai các ám ảnh tình dục
trong văn học đều có mấy nguyên nhân: Một là chủ nghĩa cấm dục kéo dài phản tự
nhiên, giả dối khiến người ta phản ứng; hai là đời sống tình dục thực tế bị ức
chế, không thoả mãn; ba là tình cảm sùng bái sinh thực khí nguyên thuỷ. Ngoài
ra cũng chú ý tính thời thượng của mỗi thời.
Việt Nam chịu ảnh hưởng của Nho giáo,
tư tưởng “nam nữ hữu biệt”, “nam nữ thụ thụ bất thân”, để lộ thân thể bị xem là
ô nhục. Tư tưởng cấm dục của Tống Nho càng khắc nghiệt và giả dối. Cuộc sống
truỵ lạc trong cung đình, tướng phủ thời ấy đã quá tai tiếng, tương phản gay
gắt với đạo đức phong kiến. Tuy vậy, số phận đặc biệt với nhiều thiệt thòi
trong cuộc đời tình duyên đã để lại dấu ấn thiếu thốn, không thoả mãn sâu đậm
trong tâm tình của Hồ Xuân Hương. Nhưng cái chính ở chỗ bà là một cá tính mạnh
mẽ, ngang tàng, dám nói cái mà đời ít người dám nói trong thơ. Vì vậy thơ bà
thể hiện chân thực tình cảm của bà.
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu
già tom!
(Tự tình III)
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tý con con!
(Tự tình II)
Lưng khoang
tình nghĩa dường
lai láng,
Nửa mạn phong
ba luống bập bềnh.
(Tự tình III)
Hăm bảy tháng trời đà mấy chốc,
Trăm năm ông Phủ Vĩnh
Tường ơi!
(Khóc ông Phủ Vĩnh Tường)
Chàng Cóc ơi, chàng Cóc ơi!
Thiếp bén
duyên chàng có thế thôi!
(Khóc Tổng Cóc)
Năm thì mười
họa hay
chăng chớ,
Một tháng đôi
lần có cũng không.
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công!
(Kiếp lấy chồng chung)
Một
cuộc sống mà tất cả đều nửa vời, nửa đoạn, dang dở, thiếu thốn hoàn toàn, thể
hiện một sự bất mãn dai dẳng, sâu sắc, liên tục trong cuộc đời ân ái. Thực tế
thì như vậy, mà đạo đức xã hội lại cấm đoán, kiêng khem một cách giả dối khêu
gợi ở bà một tình cảm chống đối, muốn xé toạc mọi che đậy.
Cái cá
nhân không thoả mãn bị dồn nén ấy trở thành ám ảnh làm cho thơ bà có cái nhìn
ngộ nghĩnh, nhìn đâu cũng thấy cơ thể người phụ nữ và việc sinh hoạt chốn buồng
khuê. Đây là điểm đã được nhiều người khẳng định. Nhưng điều mới mẻ là nhà thơ
xem đó là một nhu cầu đương nhiên, công khai, có tính chất thách thức.
Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
Không có, nhưng mà có, mới ngoan.
(Không chồng mà chửa)
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,
Trách người thợ vẽ khéo vô tình.
(Đề tranh tố nữ)
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở không xong.
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Quân tử có yêu thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.
(Quả mít)
Hiền nhân quân tử ai là chẳng,
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo…
(Đèo Ba Dội)
Đá kia còn biết xuân già dặn,
Chả trách người ta lúc trẻ trung.
(Đá ông chồng bà chồng)
Thú vui quên cả niềm lo cũ,
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
(Quán Khánh)
Nhà
thơ không xem cái lẳng lơ là lẳng lơ, không xem cái tục là tục, không xem dâm
là dâm, tất cả đều hồn nhiên, tự nhiên. Đã đến lúc không nên nói đến cái gọi là
dâm và tục trong thơ bà, mà nên nói đến những ám ảnh tính dục, nhu cầu giải
phóng nhãn quan tính dục phong kiến cổ hủ như một nhu cầu của con người cá
nhân. Cũng có người hiểu cái “dâm” trong thơ Hồ Xuân Hương là biểu hiện của văn
hoá phồn thực. Thiết nghĩ hiểu như vậy là đẩy vấn đề sang địa hạt ý thức tôn
giáo, xa lạ với ý thức cá nhân của nhà thơ.
III.
Nghệ thuật thơ của Hồ Xuân Hương
Hấp
thu và phát huy được vốn văn nghệ dân gian phong phú Hồ Xuân Hương đã dùng thể
thơ thất ngôn bát cú hoặc tuyệt cú theo Đường luật Trung Quốc một cách Việt hóa
rất độc đáo. Nhịp thơ uyển chuyển, nhiều câu phá vỡ khuôn nhịp cũ của thơ Đường
luật thất ngôn bát cú hay tuyệt cú.
Sử
dụng nghệ thuật thơ trào lộng. Thơ Hồ Xuân Hương có tính chiến đấu mạnh với
những vũ khí sắc bén nhất, đặc biệt nhất đó là châm biếm và khôi hài. Trong khi
vận dụng nghệ thuật khôi hài, Hồ Xuân Hương thường dùng hai phương tiện: xây
dựng hình ảnh tương phản và lối nói ám dụ nửa tục nửa thanh, dùng cái tục để
nói đến cái thanh.
Sử
dụng nghệ thuật tả cảnh độc đáo bằng ngôn ngữ của nhân dân, nôm na, giản dị
nhưng có giá trị gợi tả về hình ảnh cũng như về âm thanh. Ngoài ra thì bút pháp
tả thực của bà cũng rất sắc sảo, tài tình, mang hơi văn rất mạnh.
Hồ
Xuân Hương sử dụng ngôn ngữ của tục ngữ, ca dao ngay cả cách nói của Hồ Xuân
Hương, lối so sánh, ví von cũng là cách nói của nhân dân qua tục ngữ, ca dao.
Thi sĩ cũng hay dùng lối chơi chữ, lối nói lái.
C.
.
KẾT LUẬN
Cuộc
đời và thơ của Hồ Xuân Hương là một hiện tượng hết sức phức tạp, nhiều điều còn
chưa rõ ràng nhưng chúng ta đáng tự hào vì có nữ thi tài này trong nền văn học
Việt Nam.
Nội
dung tư tưởng trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương mang nội dung nhân đạo sâu sắc. Đó là
những tiếng nói đả kích, tố cáo bọn giai cấp thống trị, những cái xấu xa thối
nát của xã hội phong kiến lúc bấy giờ, tố cáo thói đạo đức giả của chúng. Thông
qua đó hồn thơ của bà đã nói lên lòng yêu thương, cảm thông, chia sẻ những bất
hạnh của những con người đặc biệt là những người phụ nữ, cho ta thấy được những
khao khát, những khẳng định về quyền sống và quyền mưu cầu hạnh phúc đáng có của
những con người bất hạnh.
D.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1.
Từ
điển Văn học – Nhiều tác giả, Nxb Khoa học xã hội, 1983.
2.
Từ
điển tác gia văn hóa Việt Nam – Nguyễn Q. Thắng, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
3.
Thơ
Hồ Xuân Hương – Nguyễn Lộc (Tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Văn học, 1984.
4.
Phân
tích bình giảng tác phẩm văn học 10 – Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên), Nxb Giáo
dục,2001.
5.
Hồ
Xuân Hương về tác gia và tác phẩm – Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (Tuyển chọn và
giới thiệu), Nxb Giáo dục, 2003.
6.
Thơ
Hồ Xuân Hương – Phạm Du Yên (Tuyển chọn), Nxb Thanh niên, 2007.
7.
Văn
học trung đại Việt Nam thế kỉ X – cuối thế kỉ XIX – Đoàn Thị Thu Vân (Chủ
biên), Nxb Giáo dục, 2008.
8.
Văn
học Trung Đại Việt Nam ( thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX)- Đoàn Thị Thu Vân(chủ
biên) , Nxb Giáo Dục, 2008