KHOA NGỮ
@&?
ẢNH HƯỞNG
CỦA THỜI ĐẠI
QUÊ HƯƠNG
GIA ĐÌNH, CUỘC ĐỜI
ĐẾN SÁNG
TÁC CỦA NGUYỄN DU
SVTH:
NHÓM
1.
Bùi Thị Nguyệt K38.601.094
2. Huỳnh
Thị Phô K38.601.103
3. Lương
Thị Phương K38.601.110
4. Võ
Thị Thúy Sinh K38.601.113
5. Thông
Thị Kim Thanh K38.601.119
6. Hồ
Thị Kiều Trinh K38.601.158
7. Phạm
Thị Hồng Nhung K38.601.100
8. Hồ
Thị Thanh Thảo K38.601.125
9. Nguyễn
Thị Hồng Gấm K38.601.036
Mục
lục
A.
MỞ ĐẦU
Thời
đại, quê hương gia đình có ảnh hưởng quan trọng trong cuộc đời và những sáng
tác của một tác gia lớn. Đó chính là những cơ sở, là nền tảng bồi đắp nên những
tâm hồn lớn, những nhà văn, nhà thơ lớn. Đó là mảnh đất dồi dào phù sa vun trồng
tài năng và nhân cách của nhà thơ, nhà văn. Mặc khác nhà văn, nhà thơ phải biết
đời sống xã hội của thời đại, phải gắn bó sâu sắc với quê hương gia đình, phải
sâu sắc cảm thấy nỗi đau đớn của con người trong thời đại, phải sống và thấu
hiểu nhân tình thế thái, hiểu những thăng trầm của lịch sử, những cuộc bể dâu
để mà có thể trải lòng trên những trang văn, thơ. Và đại thi hào Nguyễn Du
cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ thời đại, quê hương gia đình tới cuộc đời và những
sáng tác của ông.
B. NỘI DUNG
1. Tác giả Nguyễn
Du (1766- 1820)
1.1.
Thời đại
Nguyễn
Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu
thế kỉ XIX. Đây là thời kì khủng hoảng sâu sắc nhất của chế độ phong kiến, là
thời kì diễn ra những sự kiện lịch sử trọng đại, đó là “những cuộc bể dâu”, những
“phen thay đổi sơn hà” dữ dội:
Thứ nhất,
sự sụp đổ không gì cưỡng nổi của chế độ phong kiến.
Chế
độ phong kiến từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX suy tàn, rối ren và thối
nát.
Năm
1782, Đặng Thị Huệ cùng Hoàng Đình Bảo mưu giành ngôi thế tử cho Trịnh Tông
lên ngôi chúa (tức Đoan Nam Vương Trịnh Khải) nên được đưa lên giữ chức Lại bộ
Thượng thư rồi lại dược thăng Tham tụng. Nhưng đám Kiêu binh không phục, nổi
lên chống lại, kéo đến phá nhà Khản ở phường Bích Câu khiến cho người anh của
Nguyễn Du phải bỏ trốn lên Sơn Tây rồi về lánh ở Hà Tĩnh. Sau đến năm 1786,
khi ra cứu viện cho Trịnh Khải, Nguyễn Khản đã qua đời ở Thăng Long.
Gặp
hoàn cảnh như vậy, Nguyễn Du cũng bị lao đao nhưng may còn có người cha nuôi họ
Hà, làm quan võ ở Thái Nguyên, nên sau khi đậu Tam trường (sinh đồ, 1784) ông
được kế chân làm chức ấy.
Thời
cuộc vẫn cứ biến chuyển. Năm 1787, theo lệnh của Nguyễn Huệ, Vũ Văn Nhậm kéo
quân ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh và giết đi.
Vua
Chiêu Thống khi thấy quân của Chỉnh đã bị thua bèn bỏ kinh thành chạy trốn rồi
cầu cứu với triều đình nhà Thanh. Tôn Sĩ Nghị được lệnh đem quân sang đóng ở
Thăng Long.
Năm
1789, Nguyễn Huệ kéo đại binh ra đánh, phá tan 29 vạn quân Thanh. Vua Chiêu Thống
phải chạy theo Tôn Sĩ Nghị sang Trung Quốc.
Nguyễn
Du, từ năm 1787, đã muốn theo xa giá nhưng không kịp, bèn trở về quê vợ ở làng
Hải An, huyện Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Thái Bình) sống nhờ nhà
người anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn.
Thật
là:
Một
phen thay đổi sơn hà
Mảnh
thân chiếc lá biết là về đâu ?
(Chiêu
hồn)
Bấy
giờ Nguyễn Du mới 22 tuổi. Cuộc đời mười năm gió bụi (thập tải phong trần) bắt
dầu từ năm 1786.
Trong
thời kì này ta thấy chí hướng của anh em Nguyễn Du mỗi người một khác.
Nguyễn
Du lúc dầu cũng nuôi chí khôi phục nhà Lê nhưng chí ấy không thành.
Trong
bài thơ Lưu biệt Nguyễn đại lang ông có bày tỏ tấm lòng của mình trong 2 câu:
Loạn
thế nam nhi tu đối kiếm
Tha
hương bằng hữu trọng phân khâm
(Trai
thời loạn nhìn thanh gươm mà thẹn
Ở
đất khách cùng bạn chia tay càng bùi ngùi).
Nguyễn
Du thường làm thơ để than thở cảnh ngộ của mình chưa làm nên danh vọng gì mà
người đã suy yếu (sinh vị thành danh thân dĩ suy) sinh kế lại cùng quẫn nghề
văn nghề võ cũng không thành (thư kiếm vô thành sinh kế xúc) cứ hết ăn nhờ ở
miền sông lại đến miền biển (lữ thực giang tân hựu hải tân) mùa xuân mà cũng ốm
liên miên nghèo không có thuốc uống (tam xuân tích bệnh bần vô dược) mùa động
mới rét mà đã thấy khổ vì không có áo (tảo hàn dĩ giác vô y khổ) thân thế trăm
năm đành phó mặc cuộc đời cho gió bụi (bách niên thân thế ủy phong trần) không
còn hào hứng với giấc mộng gác vàng đã từ lâu (cao hứng cửu vô hoàng các mộng)
nên chán ngán cuộc đời trăm năm chết xác với văn chương (bách niên cùng tử văn
chương lý) đã ước gì có thể gọt tóc vào rừng ở nằm nghe thông reo lưng chừng
mây (hà năng lạc phát quy lâm khứ, ngọa thính tùng phong hưởng bán vân).
Cảnh
cùng khổ như vậy cũng làm cho ông phải suy nghĩ lại về thái độ của mình với
nhà Lê vì xưa nay chưa từng thấy một triều đại nào đứng vững nghìn năm (cổ kim
vị kiến thiên niên quốc).
Thứ hai,
trong giai đoạn này, nhiều phong trào nông dân diễn ra rất sôi nổi và rầm rộ. Những
cuộc nổi dậy đòi quyền sống của các phong trào nông dân, đặc biệt là cuộc khởi
nghĩa của phong trào Tây Sơn đánh đổ các tập đoàn phong kiến Lê, Trịnh, quét sạch
20 vạn quân Thanh xâm lược năm 1771. Hịch Tây Sơn đã viết:
Tưới
mưa dầm khi nắng hạn
Kéo
cùng dân ra khỏi chốn lầm than.
Cuộc
khởi nghĩa này đã đập tan chính quyền phong kiến Lê – Trịnh (Đàng Ngoài), nhà
Nguyễn (Đàng Trong); đánh đuổi hai đội quân xâm lược Xiêm, Thanh bảo vệ độc lập
dân tộc; xóa bỏ ranh giới chia cắt đất nước trên hai thế kỉ; thống nhất đất nước,
người dân được ấm no hạnh phúc; xây dựng được những chính sách về kinh tế, văn
hóa tiến bộ.
Ở
triều đại Quang Trung, chữ Nôm được đề cao được nâng lên thành vị trí chữ viết
chính thức của dân tộc. Đạo Nho nẫn được tôn sùng nhưng các tôn giáo khác cũng
không hề bị kì thị.
Phong
trào nông dân và đặc biệt là phong trào khởi nghĩa Tây Sơn của Nguyễn Huệ cũng
ảnh hưởng nhiều đến những suy nghĩ, sáng tác của Nguyễn Du.
Thứ ba,
đó là sự thành lập của nhà Nguyễn.
Triều
Nguyễn sau khi đánh bại Tây Sơn đã xiết chặt hơn các kỉ cương phong kiến vừa bị
phá vỡ. Rồi chính sách đàn áp trà thù đẫm máu xảy ra như Gia Long nói. Họ Nguyễn
định ra nhiều điều lệ thể chế nhằ đề cao chủ nghĩa tôn quân và thâu tóm quyền
hành vào tay dòng họ, triều đình. Vua trực tiếp nắm Cơ mật viện, không cử Tể
tướng, không lấy Trạng Nguyên, không lập Hoàng hậu, không phong tước vương cho
người ngoài hoàng tộc, bãi bỏ chức Tổng trấn địa phương có quyền hạn rộng lớn.
Đề cao uy thế tuyệt đối của vua, triều đình còn quy định cả sắc áo, loại vải,
chiều cao của nóc nhà của dân. Triều Nguyễn ra sức khôi phục và đề cao Tống
Nho. Chính vì thế, nông dân chịu cảnh lầm than, khổ cực. Những điều ấy ảnh hưởng
lớn trong đề tài sáng tác của Nguyễn Du.
Thứ tư,
nền kinh tế hàng hóa phát triển cho thấy sức mạnh của đồng tiền, cũng như tư
tưởng phóng khoáng của tầng lớp thị dân.
Trong
giai đoạn này việc lưu thông hàng hóa được tăng cường và tiền tệ bắt đầu có
vai trò quan trọng trong đời sống. Tầng lớp thị dân xuất hiện cùng với sự phát
triển của đô thị phong kiến thời kì này là mầm mống của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa và cũng là một trong những nhân tố trực tiếp tác động đến xu hướng chống
phong kiến đòi quyền sống, quyền tự do cá nhân và quyền thể hiện bản ngã khẳng
định cá tính của con người xã hội lâu nay bị đè nén, bức bối nặng nề về đời sống
vật chất lẫn tinh thần bởi sự khắt khe của lễ giáo phong kiến.
Đồng
tiền có sức mạnh to lớn nó lật ngược công lí, nó là quyền lực nó mua được
Tiên. Sức mạnh của nó là vạn năng. Đồng tiền biến con người thành hàng hóa,
xui con người hành động trái đạo lí và có thể bẻ cong luật pháp. Nhưng đồng tiền
còn có thể giúp con người làm được nhiều việc có ích.
Chính
vì điều này đã làm thay đổi ý thức, tư tưởng xã hội của Nguyễn Du. Tư tưởng chống
đối lễ giáo phong kiến xuất hiện trong những tác phẩm của ông, sự khẳng định
quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền khẳng định cái tôi cá nhân và những
ý nghĩa sâu sắc được ông đề cao và đưa vào những trang văn của ông.
Đồng thời đây cũng là thời
đại mà truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc được kết tinh một cách rực
rỡ.
Trong thời đại này
luồng tư tưởng nhân đạo nảy sinh, vấn đề chính là vận mệnh nhân dân, số phận
con người, số phận cá nhân được đề cao, thoát khỏi những lễ giáo phong kiến hà
khắt.
Tình yêu thương ccon
người được đề cao nhất là người phụ nữ.
Xã hội phong kiến thối
nát được tác giả vạch trần, hướng đến những điều tốt đẹp, hoàn thiện nhất.
Như
vậy, bối cảnh xã hội với
nhiều biến động dữ dội rồi nhiều sự kiện lịch sử trọng đại trên chính là
cơ sở sâu xa làm xuất hiện những quan niệm mới về nhân sinh về xã hội và con
nguời trong đó có trào lưu nhân đạo chủ nghĩa với tư tưởng chống đối các
thế lực phong kiến chà đạp con người với sự đề cao con người, đề cao cuộc
sống trần tục và đòi giải phóng tình cảm con người.
1.2.
Quê hương gia đình
Triết học Mác Lê – nin đã chứng minh rằng vật chất quyết định
ý thức. Đối với đại thi hào dân tộc Nguyễn Du cũng thế, hoàn cảnh xã hội phong
kiến, quê hương và gia đình đã ảnh hưởng không ít đến tính cách con người và sự
nghiệp sáng tác thơ văn của Nguyễn Du.
Nguyễn Du (1766 – 1820) sinh ra trong một gia đình đại quý
tộc nổi tiếng về đường khoa bảng, nhiều người đỗ đạt cao và làm quan to ở vùng
Hồng Lĩnh (quê Nguyễn Du) dân gian thường truyền tụng câu ca dao:
Bao
giờ Ngàn Hống hết cây
Sông
Rum hết nước họ này hết quan
Cha là ông là Nguyễn Nghiễm, sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi
Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ đậu
Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tức Thượng thư bộ hộ
triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần (1740 – 1778), con gái một người làm chức Câu kế,
quê làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay
thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, bà có tài hát xướng.
Năm Đinh Hợi (1767), khi Nguyễn Du mới một tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái
tử Thái bảo, Hàm tòng nhất phẩm, tức Xuân Quận công nên Nguyễn Du thời đó sống
trong giàu sang phú quý. Gia đình Nguyễn Du có bề dày về lịch sử
truyển thống văn học nghệ thuật đó là một ảnh hưởng không nhỏ đến những âm điệu
trong sáng tác của ông.
Do
mồ côi cha mẹ sớm nên ông phải đến ở cùng người anh khác mẹ là Nguyễn Khản.
Nguyễn Khản nổi tiếng phong lưu một thời, rất mê hát xứng, chính những điều đó
đã ảnh hưởng và để lại dấu ấn trong sáng văn học của ông, và có thể do đó mà
hình ảnh người ca nhi, kĩ nữ luôn được phát họa đậm nét trong các tác phẩm của
ông. Không những thế những người cháu của Nguyễn Du cũng đều là nhà thơ, nhà
văn nổi tiếng. Nguyễn Du may mắn được tiếp nhận truyền thống văn hóa của nhiều
vùng quê khác nhau. Đó là tiền đề thuận lợi cho sự tổng hợp nghệ thuật của ông.
Từ những điều trên cho thấy các sáng tác của Nguyễn Du đều chịu sự ảnh hưởng
sâu sắc từ gia đình và truyền thống văn chương. Những tác phẩm ấy thể hiện sự
phản ánh của mình về thời cuộc và những hiện thực cuộc sống. Qua đó ta cảm một
tấm lòng thiết tha yêu đời, một tấm lòng nhân đạo sâu sắc.
Chính những yếu tố gia đình và quê hương đã ảnh hưởng sâu sắc
đến tính cách con người và quá trình sáng tác của Nguyễn Du.
1.3.
Cuộc đời
Nguyễn
Du tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, sinh ngày mồng 3 tháng 1 năm 1766
tức ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tại phường Bích Câu – Thăng Long. Quê ở làng
Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Du xuất thân trong một gia
đình quý tộc, nhiều đời làm quan to dưới triều vua Lê, chúa Trịnh. Đó là một
gia đình có truyền thống yêu chuộng văn chương và nghệ thuật.
Theo
tộc gia phả của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, lên 3 tuổi, Nguyễn Du được tập ấm là
Hoàng Tín Đại phu, xuất thân là Thành Môn Vệ Úy, tước Thu Nhạc bá. Với cái hàm ấy,
Nguyễn Du đã đứng trong hàng sĩ tịch của triều đình nhà Lê, mặc dù chưa phải là
một vị quan tại chức. Nguyễn Du tướng mạo khôi ngô. Lên 6 tuổi bắt đầu đi học
chữ Hán, sách vở chỉ cần xem qua một lần là nhớ. Có lần Viện Quận công Hoàng
Ngũ Phúc đến dinh thự nhà Nguyễn Nghiễm ở phường Bích Câu chơi. Trông thấy Nguyễn
Du có tướng mạo phi thường, lấy làm quý mến bèn tặng ông một thanh Bảo Kiếm.
Năm
Tân Mão (1771), Nguyễn Nghiễm thôi chức tể tướng, về trí sĩ ở quê nhà, Nguyễn
Du theo cha về quê. Tại bến Giang Đình, ông được chứng kiến cảnh vinh hoa của
gia đình mình (sau này ông có nhắc lại trong bài thơ Giang Đình hữu cảm). Năm
Bính Thân (1776) Nguyễn Nghiễm mất, lúc đó Nguyễn Du mới lên 10 tuổi. Trong hơn
10 năm ấy, Nguyễn Du sống bên cạnh cha không nhiều. Năm 1778, bà Trần Thị Tần
lâm bệnh rồi mất. Nguyễn Du mồ côi cha mẹ.
Cha
mẹ mất, Nguyễn Du về sống với gia đình quan tể tướng tại Tiên Điền. Thủa ấy,
dinh cư nhà Nguyễn Nghiễm rất nguy nga, đồ sộ. Người dân Nghi Xuân hồi đó làm thơ
tả cảnh nhà ông như sau:
Trèo lên Hồng Lĩnh mà trông
Nhìn về đã thấy dinh ông rõ ràng
Lâu
đài dãy dọc tòa ngang
Ông ngồi đọc sách nghiêm trang một mình.
Thời
gian này Nguyễn Du bước vào tuổi trưởng thành, việc ăn học đòi hỏi ngày một nhiều.
Sau khi Nguyễn Nghiễm mất, gia cảnh không còn phong lưu như trước. Đời sống
cùng việc học hành của Nguyễn Du không được như khi còn cha mẹ. Tuy vậy với địa
vị và danh tiếng của gia tộc, Nguyễn Du vẫn là cậu Chiêu bảy được mọi người ngưỡng
mộ. Quãng thời gian này, ngoài việc học hành, những khi rỗi rãi, lễ tết, Nguyễn
Du thường cùng với bạn trai phường hát Tiên Điền vượt truông Hống đò Cài vào
Trường Lưu hát ví và xướng họa thơ phú. Qua những lần đi hát, Nguyễn Du thực sự
có cảm tình với o Uy, o Sạ. Đã có lần do mối thâm tình này mà gây ra bất hòa với
trai Trường Lưu. Những năm sau này (sau 1786), khi từ Thái Bình về sống tại quê
nhà, trở lại Trường Lưu gặp lại người xưa, gặp lại cảm xúc thời trai trẻ, Nguyễn
Du đã viết bài Văn tế Trường Lưu Nhị Nữ nổi tiếng.
Đất
Trường Lưu ngoài hát phường vải có tiếng còn là chỗ thông gia với họ Nguyễn
Tiên Điền. Nguyễn Huy Tự tác giả Truyện Hoa Tiên là con rể Nguyễn Khản (lấy
Nguyễn Thị Bành và Nguyễn Thị Thái). Nguyễn Thiện cháu Nguyễn Du là người nhuận
sắc cuốn Truyện Hoa Tiên. Vì thế, Trường Lưu là nơi đi lại rất đỗi thân tình của
Nguyễn Du. Năm Quý Mão (1783), 19 tuổi, Nguyễn Du ra Sơn Nam ( Nam Định) dự kỳ
thi Hương và đậu Tam Trường (Tú tài). Cùng năm này, anh là Nguyễn Nễ (con bà Trần
Thị Tần) em là Nguyễn Nhưng (con bà Hồ Thị Ngạn), cháu là Nguyễn Thiện (con
Nguyễn Điều) thi đậu Tứ Trường (Cử nhân) ở trường Phụng Thiên.
Sau
sự kiện Kiêu binh nổi loạn (1872), dinh thự Nguyễn Khản tại phường Bích Câu bị
đốt cháy. Hoàn cảnh khó khăn, Nguyễn Khản đành xin cho Nguyễn Du làm chức Chánh
Phủ Hiệu tỉnh Thái Nguyên vào năm 1786. Cũng trong năm này, Nguyễn Du cưới bà
Đoàn Thị Huệ con gái Đoàn Nguyễn Thục, đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Thân (1752) đang giữ
chức Ngự Sử tại triều, người xã An Hải, huyện Quỳnh Côi, Trấn Sơn Nam (nay là tỉnh
Thái Bình).
Năm
Đinh Mùi (1787), Tây Sơn tiến quân ra Bắc lấy Bắc Hà. Lê Chiêu Thống chạy sang
Trung Quốc, Nguyễn Du chạy theo vua xong không kịp, phải chạy về trốn ở quê vợ
tại Thái Bình (ở nhờ nhà anh vợ Đoàn Nguyễn Tuấn). Ông tập hợp hào mục để tính
chuyện phục quốc nhưng chí không thành.
Mười
năm lưu lạc ăn nhờ ở đậu quê vợ là những năm tháng cô đơn cùng cực của Nguyễn
Du, đói không cơm ăn, rét không có áo mặc. Ông gọi quãng thời gian này là “Mười
năm gió bụi” (Thập tải phong trần). Thường ngày ông làm thơ than thở cho cảnh
ngộ của mình, chưa làm nên danh vọng gì đã rơi vào cảnh cùng khổ.
Điều
này khiến ông suy nghĩ nhiều về cuộc đời và thảm cảnh mà gia đình ông phải gánh
chịu. Cho nên mới 30 tuổi mà tóc đã bạc trắng, ông đã giải bày nỗi niềm của
mình trong bài U cư:
…Mười năm trọn quê người nấn ná
Nương quê người tóc đã điểm sương
Những
năm này, gia cảnh nhà vợ chẳng có gì khá giả. Đoàn Nguyễn Thục đã mất, con trai
lớn cũng mất, Nguyễn Du đành cõng người con trai còn lại là Nguyễn Tứ về quê
cha đất tổ ở Tiên Điền. Trở lại quê, nhà cửa tan hoang, anh em lưu tán khắp
nơi, ông đã phải thốt lên: “Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán” (trở về Hồng Lĩnh
gia đình không còn anh em lưu lạc khắp nơi).
Tuy
vậy, ở Tiên Điền, lúc này bà con thân thuộc, con cháu thì nhiều. Nguyễn Du được
bà con gia tộc chia cho mảnh đất ở thôn Thuận Mỹ làm nhà ở. Do được sinh ra và
sống trong hoàn cảnh nhung lụa của một gia đình quý tộc nên về quê Nguyễn Du chẳng
biết làm gì ngoài đống sách vở thánh hiền. Đêm nằm nghe tiếng gió Bắc thổi qua
liếp cửa, tiếng chuột chạy trên đống sách khiến ông càng thêm buồn. Để khuây khỏa
Nguyễn Du thường cùng trai làng Tiên Điền lên núi Hồng Lĩnh săn hươu, nai, chồn,
xạ hương…và xuống sống Lam bắt cá. Ông tự đặt cho mình biệt hiệu “Hồng Sơn liệp
hộ” (Phường săn núi hồng) và “Nam Hải điếu đồ” (Nhà chài bể Nam).
Sống
tại quê nhà nhưng lòng Nguyễn Du luôn nghĩ về những năm tháng vàng son của gia
tộc mình, nghĩ về nhà Lê. Ông tỏ ý trong các câu thơ:
Hán mất nhất thời vô nghĩa sĩ
Chu sơ tam kỉ hữu ngoan dân
(Buổi
nhà Hán sắp mất không còn có người nghĩa sĩ
Lúc
nhà Chu mới dậy vẫn còn dân ngoan cố)
Hay:
Đàn đắc Kỳ Sơn thánh nhân xuất
Bá Di truy tử bất thần Chu
(Dẫu có bậc thánh nhân ta đời ở đất Kỳ
Sơn
Nhưng
ông Bá Di tuy đến chết cũng chẳng chịu làm quan cho nhà Chu)
Mùa
đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du toan trốn vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh. Việc
bại lộ, tướng Tây Sơn là quận công Nguyễn Văn Thận bắt giam. May nhờ Nguyễn Văn
Thận là bạn thân của anh ruột cùng mẹ là Nguyễn Nễ (hơn nữa cũng tiếc Nguyễn Du
là người có tài) nên không nỡ giết, chỉ giam vài tháng rồi cho về. Trong bài My
trung mạn hứng ông có ghi lại sự việc này:
Bốn bề giói bụi tình nhà việc nước mà
rơi lệ
Mười tuần lao tù nỗi lòng thắc thỏm cái
sống chết
Tháng
6 năm Nhâm Tuất (1802), Gia Long ra Bắc Hà có xuống chiếu cho các quan chức cũ
của nhà Lê phải ra yết kiến. Nhân dịp đó, Nguyễn Du được vua truyền lệnh theo
xa giá ra Bắc Thành và được dùng làm quan. Tháng 8 năm ấy được bổ làm tri huyện
Phù Dung (thuộc Khoái Châu, Sơn Nam). Tháng 11 bổ làm tri phủ Thường Tín.
Mùa
đông năm Quý Hợi (1803) sứ nhà Thanh phong sắc cho vua Gia Long. Nguyễn Du được
cử cùng Tri phủ Thượng Hồng là Lý Trần Chuyên; tri phủ Thiên Trường là Ngô Nguyễn
Viên và tri phủ Tiên Hưng là Trần Lân đi Trấn Nam Quan (Hữu Nghị quan ngày nay)
nghênh tiếp sứ thần.
Mùa
thu năm Giáp Tý (1804) Nguyễn Du lấy cớ bị bệnh xin từ chức về quê. Con đường
làm quan với nhà Nguyễn đang hanh thông, nhưng ông vẫn thấy không mặn mà với
triều đại này.
Trong
bài thơ Hỷ Thúc phụ Thường Tín giải quan quy Nguyễn Hành có ý khen chú mình là
người có dũng khí:
Thanh bình hà sự cố từ quan.
Dũng thoái như kim ý sở an.
Liệt tước dĩ tàng thiên hạ đắc.
Lệnh danh ưng vị ngã gia hoàn.
Nghĩa
là:
Đang buổi thanh bình cớ sao chú lại cáo
quan mà về
Chú mạnh mẽ rút lui lúc này là do ý muốn
Chú đã có một chức tước trong thiên hạ.
Thì chú cần phải giữ trọn danh tiết cho
nhà ta.
Về
quê chưa được bao lâu thì vua Gia Long có chỉ gọi ông vào Kinh Đô. Mùa xuân năm
Ất Sửu (1805) được thăng Đông Các đại học sĩ, tước Du Đức hầu. Đây là một ân sủng
lớn mà triều đình giành cho Nguyễn Du. Bởi Nguyễn Du chỉ đỗ Tam Trường (Tú tài)
mà thời đó phải đỗ Hương cống (Cử nhân) thì mới được bổ làm quan. Sở dĩ triều
đình nhà Nguyễn phong đặc cách cho Nguyễn Du như vậy vì: trước hết Nguyễn Du là
một người có tài, hơn nữa ông lại xuất thân trong một gia đình khoa bảng lỗi lạc,
một thời gian dài là dường cột của triều đình nhà Lê. Trọng dụng những người
như Nguyễn Du có thể tranh thủ được sĩ phu Bắc Hà.
Tuy
ra làm quan to với nhà Nguyễn, nhưng Nguyễn Du chẳng lấy làm vui mà lại thêm buồn.
Buồn vì thời thế đã thay đổi, lại buồn cho thân phận mình. “Nghĩ mình phận chẳng
ra gì”. Những đêm mưa rả rích ở xứ Huế, một mình nhìn về phía Bắc Đào Ngang
lòng càng thêm đau xót. Nhà nghèo lại đông con, phải chịu cảnh đói rách:
Thập
khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc
(Mười miệng đói đang kêu ở Đèo Ngang)
Tháng
9 năm Đinh Mão (1807), được bổ chức giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.
Xong việc, ông xin nghỉ về quê, được vua chấp thuận. Đến mùa Hạ năm Kỷ Tị
(1809) vua lại có chỉ bổ ông giữ chức Cai Bạ tỉnh Quảng Bình.
Ông
lại buồn thêm cho cảnh cá chậu chim lồng của mình. Lòng luôn hướng núi Hồng, nhớ
những buổi đi săn nai, săn hươu, càng muốn được sống cảnh thanh nhàn nơi rừng
núi. Vì thế, trong mười chín năm làm quan cho triều Nguyễn, ông sống âm thầm, lặng
lẽ, không tấu trình điều gì, chỉ có vâng dạ. Đến nỗi vua Gia Long đã trách cứ
Nguyễn Du: “Nhà nước dùng người, cứ ai hiền tài thì dùng không phân biệt gì Nam
với Bắc cả. Nhà người đã làm quan đến chức á Khanh, biết việc gì phải nói để tỏ
cái chức trách của mình, có lễ đâu cứ rụt rè sợ hãi, chỉ vâng vâng, dạ dạ hay
sao ?” (Đại Nam chính biên liệt truyện).
Những
năm làm Cai Bạ tỉnh Quảng Bình, phàm những việc trong hạt như: lính tráng, dân
sự, kiện thưa, tiền nong, lương thực và các hạng thuế, ông đều bàn bạc thương
thuyết với các quan lưu thư ký mục để thi hành. Nguyễn Du giữ chức Cai Bạ 4 năm,
chính sự giản dị không cần tiếng tăm nên được sỹ phu và nhân dân yêu mến. Năm
1811, nghe tin trấn Nghệ An bị hạn hán mất mùa, dân đói kém, ông viết thư gửi
Hiệp Trấn Nghệ An Ngô Nhân Tĩnh xin miễn thuế cho dân Nghệ An năm đó và làm thơ
cảm tạ:
…Xa
nhìn Hồng Lĩnh ngôi sao đức
Nâng
chén mừng quê khách dặm ngàn
Cùng
năm đó, xảy ra vụ án Đặng Trần Thương, Nguyễn Gia Cát và Vũ Quý Đình làm 500 đạo
sắc giả bán lấy tiền, càng làm cho Nguyễn Du thêm chán cảnh quan trường, nơi đầy
rẫy những kẻ xu thời trục lợi, chỉ thích vơ vét tiền bạc. Đến tháng 9 năm Nhâm
Thân (1812) ông xin tạm nghỉ hai tháng về quê xây mộ cho anh là Nguyễn Nễ.
Tháng
hai năm Quý Dậu (1813) có chỉ triệu ông về Kinh thăng hàm Cần Chánh Đại học sĩ,
rồi cử đi sứ Trung Quốc với tư cách là Tuế Cống Chánh sứ. Hai phó sứ giúp việc
là Thiêm Sự Bộ Lại Trần Văn Đại và Nguyễn Văn Phong.
Trên
đường đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du lại có dịp trở lại Thăng Long. Bạn bè ở
Thăng Long mở tiệc đưa tiễn ở dinh Tuyên phủ, có gọi mấy chục nữ nhạc đến giúp
vui. Trong đám nữ nhạc ông nhận ra một người mà 20 năm trước, khi ông từ Thái
Bình lên thăm anh là Nguyễn Nễ đã hát cho quân Tây Sơn nghe. Bây giờ dung nhan
tiều tụy, ông chạnh lòng nghĩ đến việc thế sự đổi thay, buồn bã thốt lên: “Than
ôi! Sao người ấy đến nỗi thế? Tôi bồi hồi không yên, ngẩng lên cúi xuống, ngậm
ngùi cho cảnh xưa nay”. Lòng cảm thương vô hạn, ông đã gửi vào bài thơ Long
thành cầm giả ca.
Ông
còn đau lòng hơn khi đi qua dinh thự nhà mình tại phường Bích Câu. Nhà cũ không
còn, cung vua, phủ chúa đã thành đường cái quan. Những cô gái quen đã đi lấy chồng,
những bạn trai chơi thân ngày trước thì nên ông, nên lão. Chứng kiến cảnh cũ,
ông thương tiếc, đau xót cho sự biến đổi của cuộc đời.
Ngày
6 tháng 2 năm 1813, đoàn sứ bộ qua ải Nam Quan, đến ngày 4 tháng 10 thì đến Bắc
Kinh. Trong thời gian đi sứ, ngoài sứ mệnh bang giao, mỗi khi đi qua đền chùa,
các danh thắng nổi tiếng của Trung Quốc, Nguyễn Du thường ghé thăm và làm thơ.
Ông ca ngợi Hạng Vũ, Văn Thiên Trường, Tỷ Can… qua sông Mịch La nơi Khuất Nguyên
tự tử, Nguyễn Du làm bài thơ Phản chiêu hồn khuyên Khuất Nguyên đừng trở về
dương gian xấu xa, đầy tội ác. Qua tượng vợ chồng Tần Cối, ông chê trách Tần Cối
nghe vợ giết trung thần làm Hán gian cho ngoại bang. Đến thăm đền thờ Tiểu
Thanh ở Hàng Châu, tỉnh Triết Giang, người con gái tài sắc bạc mệnh, Nguyễn Du
làm thơ khóc Tiểu Thanh, ngậm ngùi nghĩ đến thân phận mình:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như”
(Không biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ có ai khóc Tố Như không)
Tháng
4 năm Giáp Tuất (1814) Nguyễn Du trở về nước và có tập thơ Bắc hành tạp lục.
Mùa hạ năm Ất Hợi (1815) Nguyễn Du được phong chức Hữu Tam Tri Bộ Lễ, tước Du Đức
hầu (do đó người xưa thường gọi ông là Quan Tham Thúy Kiều).
Mùa
thu năm Kỷ Mão (1819) Nguyễn Du được cử làm Đề Điệu trường thi Quảng Nam, ông
dâng biểu xin nghỉ được nhà vua chuẩn y. Tháng 8 năm Canh Thìn (1820) vua Gia
Long mất, Minh Mạng lên ngôi, có lệnh sai Nguyễn Du đi làm Chánh sứ sang Trung
Quốc cầu phong, nhưng ông chưa kịp đo thì mất tại Kinh thành Huế vào ngà 10
tháng 8 niên hiệu Minh Mạng năm đầu (dương lịch 16/9/1820) hưởng thọ 55 tuổi.
Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép: “Khi bệnh nặng không chịu uống thuốc,
bảo người nhà sờ tay chân, nói đã lạnh rồi, ông bảo tốt, nói xong rồi mất không
trăn trối lại điều gì về sau”. Nguyễn Du chết do dịch tả, trận dịch này bắt đầu
từ Xiêm La, Chân Lạp rồi lây sang nước ta. Sử nhà Nguyễn chép: “Vào khoảng
tháng 7, tháng 8, bệnh dịch phát sinh từ các tỉnh Hà Tiên, Định Tường rồi lây
lan ra khắp nước đến tận Bắc Thành, người chết không biết bao nhiêu mà kể.
Thành thị thôn quê đều náo động”.
Nguyễn
Hành bấy giờ đang ở Bắc Thành được tin chú mất, làm thơ Văn Thúc phụ Lễ Tham
Tri phó âm cảm tác có câu thơ như sau:
Ngô môn hậu phúc công xảo hoàn
Dịch lệ hà năng tốc công tử
(Phú dày nhà ta chú đã giữ trọn vẹn
(Bệnh dịch sao có thể làm chú chết nhanh
như thế)
Sự
nghiệp văn chương của đã để lại cho hậu thế gồm:
Về
chữ Hán: Thanh Hiên Thi Tập; Nam Trung Tạp Ngâm; Bắc Hành Tạp Lục; Lê Quý kỉ sự.
Về
Quốc Ngữ (chữ Nôm): Văn tế Thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn); Văn Tế Trường
Lưu nhị nữ. Và vĩ đại nhất là tập Đoạn trường Tân Thanh mà nhân dân ta thường gọi
là Truyện Kiều
2. Ảnh hưởng từ thời
đại, quê hương gia đình, cuộc đời đến sáng tác của Nguyễn Du.
Yếu tố thời đại, gia đình quê hương và cuộc đời đã ảnh hưởng
sâu sắc đến tính cách con người và quá trình sáng tác của Nguyễn Du. Điều đó
thể hiện qua một số khía cạnh như:
2.1.
Đề tài
Nguyễn Du từng sống trong xã hội có nhiều biến chuyển kinh
thiên động địa, đã chứng kiến nhiều cảnh thê lương, mua quan bán chức nên ông
đã dùng ngòi bút sắc nét để viết nên những đề tài gần gũi với nhân dân, thông
cảm với nhân dân, ông thấu hiểu những điều đau đớn của cuộc đời, của con người
nói chung dưới xã hội phong kiến.
Ông thường viết về những số phận con người, những ước mơ được
tự do trong tình cảm lứa đôi, ước mơ về một xã hội công bằng, bác ái, là tiếng
nói chống đối, phê phán cái xã hội phong kiến, suy tàn thời bấy giờ.
2.2.
Tư tưởng nghệ thuật
Vì sống trong thời đại như thế, chứng kiến những thăng trầm
của triều đình phong kiến cũng như của gia đình ông, những bể dâu của xã hội đã
tác động rất lớn đến hồn thơ Nguyễn Du, ông đã dùng ngòi bút của mình để giãi
bày, để viết lên những tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc, các sáng tác của ông
xoay quanh những vấn đề trong thời ông sống, ông lên án tố cáo chế độ phong
kiến và thông cảm, bênh vực cho số phận những người bất hạnh, đặc biệt là người
phụ nữ. Nói đến quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Du phải nói đến tư tưởng nhân
đạo – đấy là tư tưởng nòng cốt trong sáng tác của ông.
2.3.
Hệ thống chữ viết và thể
loại
Nguyễn Du viết cả chữ Nôm và chữ Hán.
Ba tập thơ chữ Hán:
Thanh Hiên thi tập (78 bài) được viết trong ba thời kì:
- Thời kì sống ở Thái Bình. Đây là
khoảng thời gian mười năm gió bụi của Nguyễn Du.
- Thời kì về ở Hồng Lĩnh: khoảng 6 năm.
Đây là thời kì mà tác giả ngồi tù 3 tháng ở xứ Nghệ.
- Thời kì đầu ra làm quan nhà Nguyễn.
Tóm lại, Thanh hiên thi tập gồm những
bài thơ sáng tác trong thời gian đầy sóng gió của cuộc đời Nguyễn Du.
Tập thơ chữ Hán Nam trung tạp
ngâm (40 bài) (1802) khoảng thời gian Nguyễn Du làm quan ở Huế, Quảng
Bình, Hà Tĩnh.
Tập Bắc hành tạp lục (132
bài) sáng tác từ những năm 1813 trở đi, trong những chuyến đi sứ sang
Trung Quốc.
Và nhiều sáng tác chữ Nôm, trong đó
đáng chú ý nhất là hai tác phẩm:
Thứ nhất là Văn chiêu hồn hay còn gọi Văn tế thập loại chúng
sinh, viết bằng thể thơ song thất lục bát dài 18 câu chữ Nôm. Bài văn tế được
viết trong thời đại loạn lạc suy tàn. Bức tranh, cảnh tượng cái chết trong tác
phẩm là những phản ánh cuộc đời trong thời đại của nhà thơ đang sống nửa cuối
thế kỉ XVIII- nửa đầu XIX.
Chưa rõ thời gian sáng tác của Văn chiêu hồn những có hai ý kiến:
Một là của Trần Thanh Mại trên “Đông
Dương tuần báo” năm 1939. Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng
khiếp làm hàng triệu người khắp trên đất nước âm khí nặng nề.
Hai là của Hoàng Xuân Hãn cho rằng
Nguyễn Du viết bài Văn tế này sau Truyện Kiều khi ông làm cai bạ ở Quảng Bình (1802
– 1812).
Nhưng nói chung bài Văn tế được viết
trong thời đại Nguyễn Du sống trong cảnh loạn lạc, phu phen, mất mùa đói khổ
người chết như một ám ảnh.
Thứ hai là Truyện Kiều
Thời điểm
sáng tác có 3 ý kiến:
Sau khi đi sứ về (sau 1813) theo “Đại
Nam chính biên liệt truyện”.
Mới làm quan triều Nguyễn (1802 –
1809) theo thuyết Đào Duy Anh, Hoài Thanh.
Vào những năm ẩn dật dưới chân núi
Hồng, từ năm 1796 đến 1801 trước khi ra làm quan với nhà Nguyễn, theo thuyết
Trương Chính.
Dựa vào những hiểu biết của mình đối
với cuộc sống dưới chế độ phong kiến Nguyễn Du nhận thấy vận mệnh của người dân
bình thường dù ở Trung Quốc hay ở Việt Nam thì cũng đều như nhau. Trong tác
phẩm kiệt xuất này, nhà thơ đã vạch trần tất cả sự đen tối và những hiện tượng
bất hợp lí của xã hội phong kiến, đồng thời phản ánh số phận hẩm hiu của người
thường dân, do đó nội dung tư tưởng của tác phẩm, khách quan mang đầy đủ ý
nghĩa phê phán xã hội phong kiến. Cái vĩ đại của Truyện Kiều là đã đặt ra vấn
đề vận mệnh con người trong xã hội cũ. Về mặt này, cũng không có truyện thơ Nôm
quá khứ nào có thể so sánh được với kiệt tác của Nguyễn Du. Truyện Kiều có sức
lay động sâu xa là vì đằng sau nó là sự thật về đời sống và về con người. Đó
cũng là cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa, là tiếng nói chung của các sáng tác văn học
thế kỉ này. Truyện Kiều là kết tinh tinh hoa thời đại, là đỉnh cao, là thành
tựu chói lọi của văn học cổ điển Việt Nam.
2.4.
Hình thức sáng tác
Ngôn ngữ trong sáng tác Nguyễn Du là ngôn ngữ trữ tình. Nó
không chỉ đa dạng, tế nhị trong ý nghĩa, trong màu sắc mà còn giàu tính nhạc.
Cái tiêu tao réo rắt, ngọt ngào của những câu lục bát trong
Truyện Kiều chính là thứ ngôn ngữ nhịp nhàng, uyển chuyển, tình tứ của cảm xúc
hồn nhiên. Trong bút pháp trữ tình Nguyễn Du đã tận dụng triệt để mặt âm thanh
của ngôn ngữ để tăng thêm sức biểu hiện, sức gợi cảm cho mỗi câu thơ tả tình,
tả cảnh.
Trong nghệ thuật dùng ngôn ngữ trữ tình của Nguyễn Du ta thấy
lối biểu hiện tâm trạng bằng câu hỏi tu từ như đang cất lên từ toàn bộ cuộc
sống của con người.
2.5.
Nghệ thuật miêu tả
Về cảnh: đọc tác phẩm của Nguyễn Du ta bắt gặp một thế giới thiên nhiên đầy thi
vị, đầy gợi cảm, với những sắc thái tế nhị khác nhau. Nguyễn Du không chỉ để
cho cảnh vật tự bộc lộ vẻ đẹp thanh thoát, chân thật của nó mà gắn liền cảnh
đồng cảm với người. Qua sức sống thiên nhiên Nguyễn Du như tố cáo xã hội phong
kiến. Thái độ đồng cảm sâu sắc khiến cảnh vật hiện lên rõ nét – đồng thời phản
ánh tinh tế tâm trạng của nhân vật. Ông tập trung nhắc đến các hình tượng như:
mùa thu, vầng trăng, ngọn cỏ, không gian… Cảnh vật trong Truyện kiều hiện ra
không chỉ để biểu hiện tâm trạng của nhân vật, thái độ của Nguyễn Du mà còn để
làm nền khung cảnh làm nên trời đất, làm nên màu sắc, âm thanh, hoa lá, cỏ cây…
Dùng thi pháp ước lệ, tượng trưng: Nguyễn Du dùng các ẩn dụ có sẵn trong
truyền thống văn học được coi là tượng trưng cho những nét tâm lí nhất định.
Những hình ảnh, những điển cố luôn đi kèm với thái độ nhân
vật. Nó giải thích thái độ tính cách của con người.
Dùng bút pháp tả thực diễn tả trực tiếp những tình ý của con
người như nó vốn có.
Nghệ thuật ẩn dụ và hoán dụ: Được dùng để miêu tả tâm lí nhân vật
làm cụ thể hơn về tâm lí.
Kết hợp bút pháp tả thực và tượng trưng ước lệ tạo nên một kết cấu động.
Tả người là một nghệ thuật đặc sắc, chứng tỏ rằng Nguyễn Du là bậc thầy trong việc
phân tích tâm lí nhân vật. Đó có thể coi là nghệ thuật phân tích tâm lí một
cách cổ điển và sáng tạo.
Thi pháp ước lệ: từ cảnh vật, ông đã khắc họa nên
hình ảnh của con người với những nét đặc sắc của nó về số phận, tính cách và
tâm lí ẩn sâu trong nhân vật.
Chân dung: từ cách xây dựng chân dung của nhân
vật, Nguyễn Du đã khắc họa được số phận và tính cách của nhân vật ấy. Nhân vật
mà ông quan tâm nhiều nhất đó là những con người mềm yếu, là người phụ nữ phải
chịu số kiếp long đong và đau khổ.
Tâm lí: ông đi sâu vào tâm lí nhân vật hơn,
thêm vào những đoạn tả cảnh, tả tình, làm cho nhân vật được thực hơn và gần với
cuộc sống hơn.
C. KẾT LUẬN
Giữa cuộc đời và sự nghiệp sáng tác có ảnh hưởng rất lớn với
nhau. Cuộc đời là nền tảng, là cơ sở để tìm hiểu những giá trị về nội dung
trong sáng tác của một nhà thơ. Ngược lại qua tác phẩm không chỉ giúp ta hiểu
về một tác giả mà còn hiểu cả một thời đại mà tác giả đang sống. Nguyễn
Du là một con người có tâm hồn lớn. Trước sự thay đổi của thời cuộc, tuy Nguyễn
Du có chán chường, có lúc gần như tuyệt vọng song ông vẫn nhìn thẳng vào thực
tế không quay lưng lại với cuộc đời như những người cùng thời (Nguyễn Gia
Thiều, Nguyễn Hành…). Nguyễn Du đã trải qua những năm tháng sống cuộc đời bảy
nổi ba chìm, ốm không thuốc, đói không có cơm ăn, sự nghiệp tiêu tan, người
thân mỗi người mỗi ngã, bản thân trôi giạt… thế nhưng ông vẫn sống có ích cho
cuộc đời. Là người sống trong gia đình quý tộc, đi đây đi đó nhiều nhìn thấy và
thông hiểu tâm tư nguyện vọng của đại đa số quần chúng nhân dân, nên hơn ai hết
ông có cái nhìn toàn diện về cuộc đời và phản ánh vào trong tác phẩm những vần
thơ sâu sắc, như Chế Lan Viên từng viết: “ Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa
thành văn”.
D.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Đoàn
Thị Thu Vân (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam thế kỉ X – cuối thế kỉ XIX),
NXB Giáo dục, 2008.
2.
Nguyễn
Du, Truyện Kiều, NXB Văn học, 2008.
3.