Friday, October 17, 2014

Ảnh hưởng gia đình đến Nguyễn Du { Nguồn : Khối Sư phạm.ĐHSP}

Standard

    TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
                                KHOA NGỮ
@&?


   ẢNH HƯỞNG CỦA THỜI ĐẠI
  QUÊ HƯƠNG GIA ĐÌNH, CUỘC ĐỜI
   ĐẾN SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN DU

SVTH: NHÓM
1.     Bùi Thị Nguyệt                                      K38.601.094
2.     Huỳnh Thị Phô                                      K38.601.103
3.     Lương Thị Phương                       K38.601.110
4.     Võ Thị Thúy Sinh                        K38.601.113
5.     Thông Thị Kim Thanh                 K38.601.119
6.     Hồ Thị Kiều Trinh                       K38.601.158
7.     Phạm Thị Hồng Nhung                K38.601.100
8.     Hồ Thị Thanh Thảo                     K38.601.125
9.     Nguyễn Thị Hồng Gấm                K38.601.036
               
Mục lục





A.  MỞ ĐẦU

Thời đại, quê hương gia đình có ảnh hưởng quan trọng trong cuộc đời và những sáng tác của một tác gia lớn. Đó chính là những cơ sở, là nền tảng bồi đắp nên những tâm hồn lớn, những nhà văn, nhà thơ lớn. Đó là mảnh đất dồi dào phù sa vun trồng tài năng và nhân cách của nhà thơ, nhà văn. Mặc khác nhà văn, nhà thơ phải biết đời sống xã hội của thời đại, phải gắn bó sâu sắc với quê hương gia đình, phải sâu sắc cảm thấy nỗi đau đớn của con người trong thời đại, phải sống và thấu hiểu nhân tình thế thái, hiểu những thăng trầm của lịch sử, những cuộc bể dâu để mà có thể trải lòng trên những trang văn, thơ. Và đại thi hào Nguyễn Du cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ thời đại, quê hương gia đình tới cuộc đời và những sáng tác của ông.

B.  NỘI DUNG

1.     Tác giả Nguyễn Du (1766- 1820)

1.1.         Thời đại

Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Đây là thời kì khủng hoảng sâu sắc nhất của chế độ phong kiến, là thời kì diễn ra những sự kiện lịch sử trọng đại, đó là “những cuộc bể dâu”, những “phen thay đổi sơn hà” dữ dội:
Thứ nhất, sự sụp đổ không gì cưỡng nổi của chế độ phong kiến.
Chế độ phong kiến từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX suy tàn, rối ren và thối nát.
Năm 1782, Đặng Thị Huệ cùng Hoàng Đình Bảo mưu giành ngôi thế tử cho Trịnh Tông lên ngôi chúa (tức Đoan Nam Vương Trịnh Khải) nên được đưa lên giữ chức Lại bộ Thượng thư rồi lại dược thăng Tham tụng. Nhưng đám Kiêu binh không phục, nổi lên chống lại, kéo đến phá nhà Khản ở phường Bích Câu khiến cho người anh của Nguyễn Du phải bỏ trốn lên Sơn Tây rồi về lánh ở Hà Tĩnh. Sau đến năm 1786, khi ra cứu viện cho Trịnh Khải, Nguyễn Khản đã qua đời ở Thăng Long.
Gặp hoàn cảnh như vậy, Nguyễn Du cũng bị lao đao nhưng may còn có người cha nuôi họ Hà, làm quan võ ở Thái Nguyên, nên sau khi đậu Tam trường (sinh đồ, 1784) ông được kế chân làm chức ấy.
Thời cuộc vẫn cứ biến chuyển. Năm 1787, theo lệnh của Nguyễn Huệ, Vũ Văn Nhậm kéo quân ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh và giết đi.
Vua Chiêu Thống khi thấy quân của Chỉnh đã bị thua bèn bỏ kinh thành chạy trốn rồi cầu cứu với triều đình nhà Thanh. Tôn Sĩ Nghị được lệnh đem quân sang đóng ở Thăng Long.
Năm 1789, Nguyễn Huệ kéo đại binh ra đánh, phá tan 29 vạn quân Thanh. Vua Chiêu Thống phải chạy theo Tôn Sĩ Nghị sang Trung Quốc.
Nguyễn Du, từ năm 1787, đã muốn theo xa giá nhưng không kịp, bèn trở về quê vợ ở làng Hải An, huyện Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Thái Bình) sống nhờ nhà người anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn.
Thật là:
Một phen thay đổi sơn hà
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu ?
(Chiêu hồn)
Bấy giờ Nguyễn Du mới 22 tuổi. Cuộc đời mười năm gió bụi (thập tải phong trần) bắt dầu từ năm 1786.
Trong thời kì này ta thấy chí hướng của anh em Nguyễn Du mỗi người một khác.
Nguyễn Du lúc dầu cũng nuôi chí khôi phục nhà Lê nhưng chí ấy không thành.
Trong bài thơ Lưu biệt Nguyễn đại lang ông có bày tỏ tấm lòng của mình trong 2 câu:
Loạn thế nam nhi tu đối kiếm
Tha hương bằng hữu trọng phân khâm
(Trai thời loạn nhìn thanh gươm mà thẹn
Ở đất khách cùng bạn chia tay càng bùi ngùi).
Nguyễn Du thường làm thơ để than thở cảnh ngộ của mình chưa làm nên danh vọng gì mà người đã suy yếu (sinh vị thành danh thân dĩ suy) sinh kế lại cùng quẫn nghề văn nghề võ cũng không thành (thư kiếm vô thành sinh kế xúc) cứ hết ăn nhờ ở miền sông lại đến miền biển (lữ thực giang tân hựu hải tân) mùa xuân mà cũng ốm liên miên nghèo không có thuốc uống (tam xuân tích bệnh bần vô dược) mùa động mới rét mà đã thấy khổ vì không có áo (tảo hàn dĩ giác vô y khổ) thân thế trăm năm đành phó mặc cuộc đời cho gió bụi (bách niên thân thế ủy phong trần) không còn hào hứng với giấc mộng gác vàng đã từ lâu (cao hứng cửu vô hoàng các mộng) nên chán ngán cuộc đời trăm năm chết xác với văn chương (bách niên cùng tử văn chương lý) đã ước gì có thể gọt tóc vào rừng ở nằm nghe thông reo lưng chừng mây (hà năng lạc phát quy lâm khứ, ngọa thính tùng phong hưởng bán vân).
Cảnh cùng khổ như vậy cũng làm cho ông phải suy nghĩ lại về thái độ của mình với nhà Lê vì xưa nay chưa từng thấy một triều đại nào đứng vững nghìn năm (cổ kim vị kiến thiên niên quốc).
Thứ hai, trong giai đoạn này, nhiều phong trào nông dân diễn ra rất sôi nổi và rầm rộ. Những cuộc nổi dậy đòi quyền sống của các phong trào nông dân, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của phong trào Tây Sơn đánh đổ các tập đoàn phong kiến Lê, Trịnh, quét sạch 20 vạn quân Thanh xâm lược năm 1771. Hịch Tây Sơn đã viết:
Tưới mưa dầm khi nắng hạn
Kéo cùng dân ra khỏi chốn lầm than.
Cuộc khởi nghĩa này đã đập tan chính quyền phong kiến Lê – Trịnh (Đàng Ngoài), nhà Nguyễn (Đàng Trong); đánh đuổi hai đội quân xâm lược Xiêm, Thanh bảo vệ độc lập dân tộc; xóa bỏ ranh giới chia cắt đất nước trên hai thế kỉ; thống nhất đất nước, người dân được ấm no hạnh phúc; xây dựng được những chính sách về kinh tế, văn hóa tiến bộ.
Ở triều đại Quang Trung, chữ Nôm được đề cao được nâng lên thành vị trí chữ viết chính thức của dân tộc. Đạo Nho nẫn được tôn sùng nhưng các tôn giáo khác cũng không hề bị kì thị.
Phong trào nông dân và đặc biệt là phong trào khởi nghĩa Tây Sơn của Nguyễn Huệ cũng ảnh hưởng nhiều đến những suy nghĩ, sáng tác của Nguyễn Du.
Thứ ba, đó là sự thành lập của nhà Nguyễn.
Triều Nguyễn sau khi đánh bại Tây Sơn đã xiết chặt hơn các kỉ cương phong kiến vừa bị phá vỡ. Rồi chính sách đàn áp trà thù đẫm máu xảy ra như Gia Long nói. Họ Nguyễn định ra nhiều điều lệ thể chế nhằ đề cao chủ nghĩa tôn quân và thâu tóm quyền hành vào tay dòng họ, triều đình. Vua trực tiếp nắm Cơ mật viện, không cử Tể tướng, không lấy Trạng Nguyên, không lập Hoàng hậu, không phong tước vương cho người ngoài hoàng tộc, bãi bỏ chức Tổng trấn địa phương có quyền hạn rộng lớn. Đề cao uy thế tuyệt đối của vua, triều đình còn quy định cả sắc áo, loại vải, chiều cao của nóc nhà của dân. Triều Nguyễn ra sức khôi phục và đề cao Tống Nho. Chính vì thế, nông dân chịu cảnh lầm than, khổ cực. Những điều ấy ảnh hưởng lớn trong đề tài sáng tác của Nguyễn Du.
Thứ tư, nền kinh tế hàng hóa phát triển cho thấy sức mạnh của đồng tiền, cũng như tư tưởng phóng khoáng của tầng lớp thị dân.
Trong giai đoạn này việc lưu thông hàng hóa được tăng cường và tiền tệ bắt đầu có vai trò quan trọng trong đời sống. Tầng lớp thị dân xuất hiện cùng với sự phát triển của đô thị phong kiến thời kì này là mầm mống của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và cũng là một trong những nhân tố trực tiếp tác động đến xu hướng chống phong kiến đòi quyền sống, quyền tự do cá nhân và quyền thể hiện bản ngã khẳng định cá tính của con người xã hội lâu nay bị đè nén, bức bối nặng nề về đời sống vật chất lẫn tinh thần bởi sự khắt khe của lễ giáo phong kiến.
Đồng tiền có sức mạnh to lớn nó lật ngược công lí, nó là quyền lực nó mua được Tiên. Sức mạnh của nó là vạn năng. Đồng tiền biến con người thành hàng hóa, xui con người hành động trái đạo lí và có thể bẻ cong luật pháp. Nhưng đồng tiền còn có thể giúp con người làm được nhiều việc có ích.
Chính vì điều này đã làm thay đổi ý thức, tư tưởng xã hội của Nguyễn Du. Tư tưởng chống đối lễ giáo phong kiến xuất hiện trong những tác phẩm của ông, sự khẳng định quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền khẳng định cái tôi cá nhân và những ý nghĩa sâu sắc được ông đề cao và đưa vào những trang văn của ông.
Đồng thời đây cũng là thời đại mà truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc được kết tinh một cách rực rỡ.
Trong thời đại này luồng tư tưởng nhân đạo nảy sinh, vấn đề chính là vận mệnh nhân dân, số phận con người, số phận cá nhân được đề cao, thoát khỏi những lễ giáo phong kiến hà khắt.
Tình yêu thương ccon người được đề cao nhất là người phụ nữ.
Xã hội phong kiến thối nát được tác giả vạch trần, hướng đến những điều tốt đẹp, hoàn thiện nhất.
Như vậy, bối cảnh xã hội với nhiều biến động dữ dội rồi nhiều sự kiện lịch sử trọng đại trên chính là cơ sở sâu xa làm xuất hiện những quan niệm mới về nhân sinh về xã hội và con ng­uời trong đó có trào l­ưu nhân đạo chủ nghĩa với tư­ t­ưởng chống đối các thế lực phong kiến chà đạp con ng­ười với sự đề cao con ng­ười, đề cao cuộc sống trần tục và đòi giải phóng tình cảm con ng­ười.

1.2.         Quê hương gia đình

Triết học Mác Lê – nin đã chứng minh rằng vật chất quyết định ý thức. Đối với đại thi hào dân tộc Nguyễn Du cũng thế, hoàn cảnh xã hội phong kiến, quê hương và gia đình đã ảnh hưởng không ít đến tính cách con người và sự nghiệp sáng tác thơ văn của Nguyễn Du.
Nguyễn Du (1766 – 1820) sinh ra trong một gia đình đại quý tộc nổi tiếng về đường khoa bảng, nhiều người đỗ đạt cao và làm quan to ở vùng Hồng Lĩnh (quê Nguyễn Du) dân gian thường truyền tụng câu ca dao:
Bao giờ Ngàn Hống hết cây
Sông Rum hết nước họ này hết quan
Cha là ông là Nguyễn Nghiễm, sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tức Thượng thư bộ hộ triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần (1740 – 1778), con gái một người làm chức Câu kế, quê làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, bà có tài hát xướng. Năm Đinh Hợi (1767), khi Nguyễn Du mới một tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, Hàm tòng nhất phẩm, tức Xuân Quận công nên Nguyễn Du thời đó sống trong giàu sang phú quý. Gia đình Nguyễn Du có bề dày về lịch sử truyển thống văn học nghệ thuật đó là một ảnh hưởng không nhỏ đến những âm điệu trong sáng tác của ông.
Do mồ côi cha mẹ sớm nên ông phải đến ở cùng người anh khác mẹ là Nguyễn Khản. Nguyễn Khản nổi tiếng phong lưu một thời, rất mê hát xứng, chính những điều đó đã ảnh hưởng và để lại dấu ấn trong sáng văn học của ông, và có thể do đó mà hình ảnh người ca nhi, kĩ nữ luôn được phát họa đậm nét trong các tác phẩm của ông. Không những thế những người cháu của Nguyễn Du cũng đều là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Nguyễn Du may mắn được tiếp nhận truyền thống văn hóa của nhiều vùng quê khác nhau. Đó là tiền đề thuận lợi cho sự tổng hợp nghệ thuật của ông. Từ những điều trên cho thấy các sáng tác của Nguyễn Du đều chịu sự ảnh hưởng sâu sắc từ gia đình và truyền thống văn chương. Những tác phẩm ấy thể hiện sự phản ánh của mình về thời cuộc và những hiện thực cuộc sống. Qua đó ta cảm một tấm lòng thiết tha yêu đời, một tấm lòng nhân đạo sâu sắc.
Chính những yếu tố gia đình và quê hương đã ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách con người và quá trình sáng tác của Nguyễn Du.

1.3.         Cuộc đời

Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, sinh ngày mồng 3 tháng 1 năm 1766 tức ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tại phường Bích Câu – Thăng Long. Quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình quý tộc, nhiều đời làm quan to dưới triều vua Lê, chúa Trịnh. Đó là một gia đình có truyền thống yêu chuộng văn chương và nghệ thuật.
Theo tộc gia phả của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, lên 3 tuổi, Nguyễn Du được tập ấm là Hoàng Tín Đại phu, xuất thân là Thành Môn Vệ Úy, tước Thu Nhạc bá. Với cái hàm ấy, Nguyễn Du đã đứng trong hàng sĩ tịch của triều đình nhà Lê, mặc dù chưa phải là một vị quan tại chức. Nguyễn Du tướng mạo khôi ngô. Lên 6 tuổi bắt đầu đi học chữ Hán, sách vở chỉ cần xem qua một lần là nhớ. Có lần Viện Quận công Hoàng Ngũ Phúc đến dinh thự nhà Nguyễn Nghiễm ở phường Bích Câu chơi. Trông thấy Nguyễn Du có tướng mạo phi thường, lấy làm quý mến bèn tặng ông một thanh Bảo Kiếm.
Năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nghiễm thôi chức tể tướng, về trí sĩ ở quê nhà, Nguyễn Du theo cha về quê. Tại bến Giang Đình, ông được chứng kiến cảnh vinh hoa của gia đình mình (sau này ông có nhắc lại trong bài thơ Giang Đình hữu cảm). Năm Bính Thân (1776) Nguyễn Nghiễm mất, lúc đó Nguyễn Du mới lên 10 tuổi. Trong hơn 10 năm ấy, Nguyễn Du sống bên cạnh cha không nhiều. Năm 1778, bà Trần Thị Tần lâm bệnh rồi mất. Nguyễn Du mồ côi cha mẹ.  
Cha mẹ mất, Nguyễn Du về sống với gia đình quan tể tướng tại Tiên Điền. Thủa ấy, dinh cư nhà Nguyễn Nghiễm rất nguy nga, đồ sộ. Người dân Nghi Xuân hồi đó làm thơ tả cảnh nhà ông như sau:
Trèo lên Hồng Lĩnh mà trông
Nhìn về đã thấy dinh ông rõ ràng
Lâu đài dãy dọc tòa ngang
Ông ngồi đọc sách nghiêm trang một mình.
Thời gian này Nguyễn Du bước vào tuổi trưởng thành, việc ăn học đòi hỏi ngày một nhiều. Sau khi Nguyễn Nghiễm mất, gia cảnh không còn phong lưu như trước. Đời sống cùng việc học hành của Nguyễn Du không được như khi còn cha mẹ. Tuy vậy với địa vị và danh tiếng của gia tộc, Nguyễn Du vẫn là cậu Chiêu bảy được mọi người ngưỡng mộ. Quãng thời gian này, ngoài việc học hành, những khi rỗi rãi, lễ tết, Nguyễn Du thường cùng với bạn trai phường hát Tiên Điền vượt truông Hống đò Cài vào Trường Lưu hát ví và xướng họa thơ phú. Qua những lần đi hát, Nguyễn Du thực sự có cảm tình với o Uy, o Sạ. Đã có lần do mối thâm tình này mà gây ra bất hòa với trai Trường Lưu. Những năm sau này (sau 1786), khi từ Thái Bình về sống tại quê nhà, trở lại Trường Lưu gặp lại người xưa, gặp lại cảm xúc thời trai trẻ, Nguyễn Du đã viết bài Văn tế Trường Lưu Nhị Nữ nổi tiếng.
Đất Trường Lưu ngoài hát phường vải có tiếng còn là chỗ thông gia với họ Nguyễn Tiên Điền. Nguyễn Huy Tự tác giả Truyện Hoa Tiên là con rể Nguyễn Khản (lấy Nguyễn Thị Bành và Nguyễn Thị Thái). Nguyễn Thiện cháu Nguyễn Du là người nhuận sắc cuốn Truyện Hoa Tiên. Vì thế, Trường Lưu là nơi đi lại rất đỗi thân tình của Nguyễn Du. Năm Quý Mão (1783), 19 tuổi, Nguyễn Du ra Sơn Nam ( Nam Định) dự kỳ thi Hương và đậu Tam Trường (Tú tài). Cùng năm này, anh là Nguyễn Nễ (con bà Trần Thị Tần) em là Nguyễn Nhưng (con bà Hồ Thị Ngạn), cháu là Nguyễn Thiện (con Nguyễn Điều) thi đậu Tứ Trường (Cử nhân) ở trường Phụng Thiên.
Sau sự kiện Kiêu binh nổi loạn (1872), dinh thự Nguyễn Khản tại phường Bích Câu bị đốt cháy. Hoàn cảnh khó khăn, Nguyễn Khản đành xin cho Nguyễn Du làm chức Chánh Phủ Hiệu tỉnh Thái Nguyên vào năm 1786. Cũng trong năm này, Nguyễn Du cưới bà Đoàn Thị Huệ con gái Đoàn Nguyễn Thục, đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Thân (1752) đang giữ chức Ngự Sử tại triều, người xã An Hải, huyện Quỳnh Côi, Trấn Sơn Nam (nay là tỉnh Thái Bình).
Năm Đinh Mùi (1787), Tây Sơn tiến quân ra Bắc lấy Bắc Hà. Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, Nguyễn Du chạy theo vua xong không kịp, phải chạy về trốn ở quê vợ tại Thái Bình (ở nhờ nhà anh vợ Đoàn Nguyễn Tuấn). Ông tập hợp hào mục để tính chuyện phục quốc nhưng chí không thành.
Mười năm lưu lạc ăn nhờ ở đậu quê vợ là những năm tháng cô đơn cùng cực của Nguyễn Du, đói không cơm ăn, rét không có áo mặc. Ông gọi quãng thời gian này là “Mười năm gió bụi” (Thập tải phong trần). Thường ngày ông làm thơ than thở cho cảnh ngộ của mình, chưa làm nên danh vọng gì đã rơi vào cảnh cùng khổ.
Điều này khiến ông suy nghĩ nhiều về cuộc đời và thảm cảnh mà gia đình ông phải gánh chịu. Cho nên mới 30 tuổi mà tóc đã bạc trắng, ông đã giải bày nỗi niềm của mình trong bài U cư:
…Mười năm trọn quê người nấn ná
Nương quê người tóc đã điểm sương
Những năm này, gia cảnh nhà vợ chẳng có gì khá giả. Đoàn Nguyễn Thục đã mất, con trai lớn cũng mất, Nguyễn Du đành cõng người con trai còn lại là Nguyễn Tứ về quê cha đất tổ ở Tiên Điền. Trở lại quê, nhà cửa tan hoang, anh em lưu tán khắp nơi, ông đã phải thốt lên: “Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán” (trở về Hồng Lĩnh gia đình không còn anh em lưu lạc khắp nơi).
Tuy vậy, ở Tiên Điền, lúc này bà con thân thuộc, con cháu thì nhiều. Nguyễn Du được bà con gia tộc chia cho mảnh đất ở thôn Thuận Mỹ làm nhà ở. Do được sinh ra và sống trong hoàn cảnh nhung lụa của một gia đình quý tộc nên về quê Nguyễn Du chẳng biết làm gì ngoài đống sách vở thánh hiền. Đêm nằm nghe tiếng gió Bắc thổi qua liếp cửa, tiếng chuột chạy trên đống sách khiến ông càng thêm buồn. Để khuây khỏa Nguyễn Du thường cùng trai làng Tiên Điền lên núi Hồng Lĩnh săn hươu, nai, chồn, xạ hương…và xuống sống Lam bắt cá. Ông tự đặt cho mình biệt hiệu “Hồng Sơn liệp hộ” (Phường săn núi hồng) và “Nam Hải điếu đồ” (Nhà chài bể Nam).
Sống tại quê nhà nhưng lòng Nguyễn Du luôn nghĩ về những năm tháng vàng son của gia tộc mình, nghĩ về nhà Lê. Ông tỏ ý trong các câu thơ:
Hán mất nhất thời vô nghĩa sĩ
Chu sơ tam kỉ hữu ngoan dân
                         (Buổi nhà Hán sắp mất không còn có người nghĩa sĩ
                          Lúc nhà Chu mới dậy vẫn còn dân ngoan cố)

Hay:   
Đàn đắc Kỳ Sơn thánh nhân xuất
Bá Di truy tử bất thần Chu
(Dẫu có bậc thánh nhân ta đời ở đất Kỳ Sơn
Nhưng ông Bá Di tuy đến chết cũng chẳng chịu làm quan cho nhà Chu)
Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du toan trốn vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh. Việc bại lộ, tướng Tây Sơn là quận công Nguyễn Văn Thận bắt giam. May nhờ Nguyễn Văn Thận là bạn thân của anh ruột cùng mẹ là Nguyễn Nễ (hơn nữa cũng tiếc Nguyễn Du là người có tài) nên không nỡ giết, chỉ giam vài tháng rồi cho về. Trong bài My trung mạn hứng ông có ghi lại sự việc này:
Bốn bề giói bụi tình nhà việc nước mà rơi lệ
Mười tuần lao tù nỗi lòng thắc thỏm cái sống chết
Tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802), Gia Long ra Bắc Hà có xuống chiếu cho các quan chức cũ của nhà Lê phải ra yết kiến. Nhân dịp đó, Nguyễn Du được vua truyền lệnh theo xa giá ra Bắc Thành và được dùng làm quan. Tháng 8 năm ấy được bổ làm tri huyện Phù Dung (thuộc Khoái Châu, Sơn Nam). Tháng 11 bổ làm tri phủ Thường Tín.
Mùa đông năm Quý Hợi (1803) sứ nhà Thanh phong sắc cho vua Gia Long. Nguyễn Du được cử cùng Tri phủ Thượng Hồng là Lý Trần Chuyên; tri phủ Thiên Trường là Ngô Nguyễn Viên và tri phủ Tiên Hưng là Trần Lân đi Trấn Nam Quan (Hữu Nghị quan ngày nay) nghênh tiếp sứ thần.
Mùa thu năm Giáp Tý (1804) Nguyễn Du lấy cớ bị bệnh xin từ chức về quê. Con đường làm quan với nhà Nguyễn đang hanh thông, nhưng ông vẫn thấy không mặn mà với triều đại này.
Trong bài thơ Hỷ Thúc phụ Thường Tín giải quan quy Nguyễn Hành có ý khen chú mình là người có dũng khí:
Thanh bình hà sự cố từ quan.
Dũng thoái như kim ý sở an.
Liệt tước dĩ tàng thiên hạ đắc.
Lệnh danh ưng vị ngã gia hoàn.

Nghĩa là:
Đang buổi thanh bình cớ sao chú lại cáo quan mà về
Chú mạnh mẽ rút lui lúc này là do ý muốn
Chú đã có một chức tước trong thiên hạ.
Thì chú cần phải giữ trọn danh tiết cho nhà ta.
Về quê chưa được bao lâu thì vua Gia Long có chỉ gọi ông vào Kinh Đô. Mùa xuân năm Ất Sửu (1805) được thăng Đông Các đại học sĩ, tước Du Đức hầu. Đây là một ân sủng lớn mà triều đình giành cho Nguyễn Du. Bởi Nguyễn Du chỉ đỗ Tam Trường (Tú tài) mà thời đó phải đỗ Hương cống (Cử nhân) thì mới được bổ làm quan. Sở dĩ triều đình nhà Nguyễn phong đặc cách cho Nguyễn Du như vậy vì: trước hết Nguyễn Du là một người có tài, hơn nữa ông lại xuất thân trong một gia đình khoa bảng lỗi lạc, một thời gian dài là dường cột của triều đình nhà Lê. Trọng dụng những người như Nguyễn Du có thể tranh thủ được sĩ phu Bắc Hà.
Tuy ra làm quan to với nhà Nguyễn, nhưng Nguyễn Du chẳng lấy làm vui mà lại thêm buồn. Buồn vì thời thế đã thay đổi, lại buồn cho thân phận mình. “Nghĩ mình phận chẳng ra gì”. Những đêm mưa rả rích ở xứ Huế, một mình nhìn về phía Bắc Đào Ngang lòng càng thêm đau xót. Nhà nghèo lại đông con, phải chịu cảnh đói rách:
Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc
   (Mười miệng đói đang kêu ở Đèo Ngang)
Tháng 9 năm Đinh Mão (1807), được bổ chức giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương. Xong việc, ông xin nghỉ về quê, được vua chấp thuận. Đến mùa Hạ năm Kỷ Tị (1809) vua lại có chỉ bổ ông giữ chức Cai Bạ tỉnh Quảng Bình.
Ông lại buồn thêm cho cảnh cá chậu chim lồng của mình. Lòng luôn hướng núi Hồng, nhớ những buổi đi săn nai, săn hươu, càng muốn được sống cảnh thanh nhàn nơi rừng núi. Vì thế, trong mười chín năm làm quan cho triều Nguyễn, ông sống âm thầm, lặng lẽ, không tấu trình điều gì, chỉ có vâng dạ. Đến nỗi vua Gia Long đã trách cứ Nguyễn Du: “Nhà nước dùng người, cứ ai hiền tài thì dùng không phân biệt gì Nam với Bắc cả. Nhà người đã làm quan đến chức á Khanh, biết việc gì phải nói để tỏ cái chức trách của mình, có lễ đâu cứ rụt rè sợ hãi, chỉ vâng vâng, dạ dạ hay sao ?” (Đại Nam chính biên liệt truyện).
Những năm làm Cai Bạ tỉnh Quảng Bình, phàm những việc trong hạt như: lính tráng, dân sự, kiện thưa, tiền nong, lương thực và các hạng thuế, ông đều bàn bạc thương thuyết với các quan lưu thư ký mục để thi hành. Nguyễn Du giữ chức Cai Bạ 4 năm, chính sự giản dị không cần tiếng tăm nên được sỹ phu và nhân dân yêu mến. Năm 1811, nghe tin trấn Nghệ An bị hạn hán mất mùa, dân đói kém, ông viết thư gửi Hiệp Trấn Nghệ An Ngô Nhân Tĩnh xin miễn thuế cho dân Nghệ An năm đó và làm thơ cảm tạ:
…Xa nhìn Hồng Lĩnh ngôi sao đức
Nâng chén mừng quê khách dặm ngàn
Cùng năm đó, xảy ra vụ án Đặng Trần Thương, Nguyễn Gia Cát và Vũ Quý Đình làm 500 đạo sắc giả bán lấy tiền, càng làm cho Nguyễn Du thêm chán cảnh quan trường, nơi đầy rẫy những kẻ xu thời trục lợi, chỉ thích vơ vét tiền bạc. Đến tháng 9 năm Nhâm Thân (1812) ông xin tạm nghỉ hai tháng về quê xây mộ cho anh là Nguyễn Nễ.
Tháng hai năm Quý Dậu (1813) có chỉ triệu ông về Kinh thăng hàm Cần Chánh Đại học sĩ, rồi cử đi sứ Trung Quốc với tư cách là Tuế Cống Chánh sứ. Hai phó sứ giúp việc là Thiêm Sự Bộ Lại Trần Văn Đại và Nguyễn Văn Phong.
Trên đường đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du lại có dịp trở lại Thăng Long. Bạn bè ở Thăng Long mở tiệc đưa tiễn ở dinh Tuyên phủ, có gọi mấy chục nữ nhạc đến giúp vui. Trong đám nữ nhạc ông nhận ra một người mà 20 năm trước, khi ông từ Thái Bình lên thăm anh là Nguyễn Nễ đã hát cho quân Tây Sơn nghe. Bây giờ dung nhan tiều tụy, ông chạnh lòng nghĩ đến việc thế sự đổi thay, buồn bã thốt lên: “Than ôi! Sao người ấy đến nỗi thế? Tôi bồi hồi không yên, ngẩng lên cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa nay”. Lòng cảm thương vô hạn, ông đã gửi vào bài thơ Long thành cầm giả ca.
Ông còn đau lòng hơn khi đi qua dinh thự nhà mình tại phường Bích Câu. Nhà cũ không còn, cung vua, phủ chúa đã thành đường cái quan. Những cô gái quen đã đi lấy chồng, những bạn trai chơi thân ngày trước thì nên ông, nên lão. Chứng kiến cảnh cũ, ông thương tiếc, đau xót cho sự biến đổi của cuộc đời.
Ngày 6 tháng 2 năm 1813, đoàn sứ bộ qua ải Nam Quan, đến ngày 4 tháng 10 thì đến Bắc Kinh. Trong thời gian đi sứ, ngoài sứ mệnh bang giao, mỗi khi đi qua đền chùa, các danh thắng nổi tiếng của Trung Quốc, Nguyễn Du thường ghé thăm và làm thơ. Ông ca ngợi Hạng Vũ, Văn Thiên Trường, Tỷ Can… qua sông Mịch La nơi Khuất Nguyên tự tử, Nguyễn Du làm bài thơ Phản chiêu hồn khuyên Khuất Nguyên đừng trở về dương gian xấu xa, đầy tội ác. Qua tượng vợ chồng Tần Cối, ông chê trách Tần Cối nghe vợ giết trung thần làm Hán gian cho ngoại bang. Đến thăm đền thờ Tiểu Thanh ở Hàng Châu, tỉnh Triết Giang, người con gái tài sắc bạc mệnh, Nguyễn Du làm thơ khóc Tiểu Thanh, ngậm ngùi nghĩ đến thân phận mình:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như”
(Không biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ có ai khóc Tố Như không)
Tháng 4 năm Giáp Tuất (1814) Nguyễn Du trở về nước và có tập thơ Bắc hành tạp lục. Mùa hạ năm Ất Hợi (1815) Nguyễn Du được phong chức Hữu Tam Tri Bộ Lễ, tước Du Đức hầu (do đó người xưa thường gọi ông là Quan Tham Thúy Kiều).
Mùa thu năm Kỷ Mão (1819) Nguyễn Du được cử làm Đề Điệu trường thi Quảng Nam, ông dâng biểu xin nghỉ được nhà vua chuẩn y. Tháng 8 năm Canh Thìn (1820) vua Gia Long mất, Minh Mạng lên ngôi, có lệnh sai Nguyễn Du đi làm Chánh sứ sang Trung Quốc cầu phong, nhưng ông chưa kịp đo thì mất tại Kinh thành Huế vào ngà 10 tháng 8 niên hiệu Minh Mạng năm đầu (dương lịch 16/9/1820) hưởng thọ 55 tuổi. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép: “Khi bệnh nặng không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân, nói đã lạnh rồi, ông bảo tốt, nói xong rồi mất không trăn trối lại điều gì về sau”. Nguyễn Du chết do dịch tả, trận dịch này bắt đầu từ Xiêm La, Chân Lạp rồi lây sang nước ta. Sử nhà Nguyễn chép: “Vào khoảng tháng 7, tháng 8, bệnh dịch phát sinh từ các tỉnh Hà Tiên, Định Tường rồi lây lan ra khắp nước đến tận Bắc Thành, người chết không biết bao nhiêu mà kể. Thành thị thôn quê đều náo động”.
Nguyễn Hành bấy giờ đang ở Bắc Thành được tin chú mất, làm thơ Văn Thúc phụ Lễ Tham Tri phó âm cảm tác có câu thơ như sau:
Ngô môn hậu phúc công xảo hoàn
Dịch lệ hà năng tốc công tử
(Phú dày nhà ta chú đã giữ trọn vẹn
(Bệnh dịch sao có thể làm chú chết nhanh như thế)
Sự nghiệp văn chương của đã để lại cho hậu thế gồm:
Về chữ Hán: Thanh Hiên Thi Tập; Nam Trung Tạp Ngâm; Bắc Hành Tạp Lục; Lê Quý kỉ sự.
Về Quốc Ngữ (chữ Nôm): Văn tế Thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn); Văn Tế Trường Lưu nhị nữ. Và vĩ đại nhất là tập Đoạn trường Tân Thanh mà nhân dân ta thường gọi là Truyện Kiều

2.     Ảnh hưởng từ thời đại, quê hương gia đình, cuộc đời đến sáng tác của Nguyễn Du.

Yếu tố thời đại, gia đình quê hương và cuộc đời đã ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách con người và quá trình sáng tác của Nguyễn Du. Điều đó thể hiện qua một số khía cạnh như:

2.1.         Đề tài

Nguyễn Du từng sống trong xã hội có nhiều biến chuyển kinh thiên động địa, đã chứng kiến nhiều cảnh thê lương, mua quan bán chức nên ông đã dùng ngòi bút sắc nét để viết nên những đề tài gần gũi với nhân dân, thông cảm với nhân dân, ông thấu hiểu những điều đau đớn của cuộc đời, của con người nói chung dưới xã hội phong kiến.
Ông thường viết về những số phận con người, những ước mơ được tự do trong tình cảm lứa đôi, ước mơ về một xã hội công bằng, bác ái, là tiếng nói chống đối, phê phán cái xã hội phong kiến, suy tàn thời bấy giờ.

2.2.         Tư tưởng nghệ thuật

Vì sống trong thời đại như thế, chứng kiến những thăng trầm của triều đình phong kiến cũng như của gia đình ông, những bể dâu của xã hội đã tác động rất lớn đến hồn thơ Nguyễn Du, ông đã dùng ngòi bút của mình để giãi bày, để viết lên những tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc, các sáng tác của ông xoay quanh những vấn đề trong thời ông sống, ông lên án tố cáo chế độ phong kiến và thông cảm, bênh vực cho số phận những người bất hạnh, đặc biệt là người phụ nữ. Nói đến quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Du phải nói đến tư tưởng nhân đạo – đấy là tư tưởng nòng cốt trong sáng tác của ông.

2.3.         Hệ thống chữ viết và thể loại

Nguyễn Du viết cả chữ Nôm và chữ Hán.
Ba tập thơ chữ Hán:
Thanh Hiên thi tập (78 bài) được viết trong ba thời kì:
-       Thời kì sống ở Thái Bình. Đây là khoảng thời gian mười năm gió bụi của Nguyễn Du.
-       Thời kì về ở Hồng Lĩnh: khoảng 6 năm. Đây là thời kì mà tác giả ngồi tù 3 tháng ở xứ Nghệ.
-       Thời kì đầu ra làm quan nhà Nguyễn.
Tóm lại, Thanh hiên thi tập gồm những bài thơ sáng tác trong thời gian đầy sóng gió của cuộc đời Nguyễn Du.
Tập thơ chữ Hán Nam trung tạp ngâm (40 bài) (1802) khoảng thời gian Nguyễn Du làm quan ở Huế, Quảng Bình, Hà Tĩnh.
Tập Bắc hành tạp lục (132 bài) sáng tác từ những năm 1813 trở đi, trong những chuyến đi sứ sang Trung Quốc.
Và nhiều sáng tác chữ Nôm, trong đó đáng chú ý nhất là hai tác phẩm:
Thứ nhất là Văn chiêu hồn hay còn gọi Văn tế thập loại chúng sinh, viết bằng thể thơ song thất lục bát dài 18 câu chữ Nôm. Bài văn tế được viết trong thời đại loạn lạc suy tàn. Bức tranh, cảnh tượng cái chết trong tác phẩm là những phản ánh cuộc đời trong thời đại của nhà thơ đang sống nửa cuối thế kỉ XVIII- nửa đầu XIX.
Chưa rõ thời gian sáng tác của Văn chiêu hồn những có hai ý kiến:
Một là của Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939. Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hàng triệu người khắp trên đất nước âm khí nặng nề.
Hai là của Hoàng Xuân Hãn cho rằng Nguyễn Du viết bài Văn tế này sau Truyện Kiều khi ông làm cai bạ ở Quảng Bình (1802 – 1812).
Nhưng nói chung bài Văn tế được viết trong thời đại Nguyễn Du sống trong cảnh loạn lạc, phu phen, mất mùa đói khổ người chết như một ám ảnh.
Thứ hai là Truyện Kiều
Thời điểm sáng tác có 3 ý kiến:
Sau khi đi sứ về (sau 1813) theo “Đại Nam chính biên liệt truyện”.
Mới làm quan triều Nguyễn (1802 – 1809) theo thuyết Đào Duy Anh, Hoài Thanh.
Vào những năm ẩn dật dưới chân núi Hồng, từ năm 1796 đến 1801 trước khi ra làm quan với nhà Nguyễn, theo thuyết Trương Chính.
Dựa vào những hiểu biết của mình đối với cuộc sống dưới chế độ phong kiến Nguyễn Du nhận thấy vận mệnh của người dân bình thường dù ở Trung Quốc hay ở Việt Nam thì cũng đều như nhau. Trong tác phẩm kiệt xuất này, nhà thơ đã vạch trần tất cả sự đen tối và những hiện tượng bất hợp lí của xã hội phong kiến, đồng thời phản ánh số phận hẩm hiu của người thường dân, do đó nội dung tư tưởng của tác phẩm, khách quan mang đầy đủ ý nghĩa phê phán xã hội phong kiến. Cái vĩ đại của Truyện Kiều là đã đặt ra vấn đề vận mệnh con người trong xã hội cũ. Về mặt này, cũng không có truyện thơ Nôm quá khứ nào có thể so sánh được với kiệt tác của Nguyễn Du. Truyện Kiều có sức lay động sâu xa là vì đằng sau nó là sự thật về đời sống và về con người. Đó cũng là cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa, là tiếng nói chung của các sáng tác văn học thế kỉ này. Truyện Kiều là kết tinh tinh hoa thời đại, là đỉnh cao, là thành tựu chói lọi của văn học cổ điển Việt Nam.

2.4.         Hình thức sáng tác

Ngôn ngữ trong sáng tác Nguyễn Du là ngôn ngữ trữ tình. Nó không chỉ đa dạng, tế nhị trong ý nghĩa, trong màu sắc mà còn giàu tính nhạc.
Cái tiêu tao réo rắt, ngọt ngào của những câu lục bát trong Truyện Kiều chính là thứ ngôn ngữ nhịp nhàng, uyển chuyển, tình tứ của cảm xúc hồn nhiên. Trong bút pháp trữ tình Nguyễn Du đã tận dụng triệt để mặt âm thanh của ngôn ngữ để tăng thêm sức biểu hiện, sức gợi cảm cho mỗi câu thơ tả tình, tả cảnh.
Trong nghệ thuật dùng ngôn ngữ trữ tình của Nguyễn Du ta thấy lối biểu hiện tâm trạng bằng câu hỏi tu từ như đang cất lên từ toàn bộ cuộc sống của con người.

2.5.         Nghệ thuật miêu tả

Về cảnh: đọc tác phẩm của Nguyễn Du ta bắt gặp một thế giới thiên nhiên đầy thi vị, đầy gợi cảm, với những sắc thái tế nhị khác nhau. Nguyễn Du không chỉ để cho cảnh vật tự bộc lộ vẻ đẹp thanh thoát, chân thật của nó mà gắn liền cảnh đồng cảm với người. Qua sức sống thiên nhiên Nguyễn Du như tố cáo xã hội phong kiến. Thái độ đồng cảm sâu sắc khiến cảnh vật hiện lên rõ nét – đồng thời phản ánh tinh tế tâm trạng của nhân vật. Ông tập trung nhắc đến các hình tượng như: mùa thu, vầng trăng, ngọn cỏ, không gian… Cảnh vật trong Truyện kiều hiện ra không chỉ để biểu hiện tâm trạng của nhân vật, thái độ của Nguyễn Du mà còn để làm nền khung cảnh làm nên trời đất, làm nên màu sắc, âm thanh, hoa lá, cỏ cây…
Dùng thi pháp ước lệ, tượng trưng: Nguyễn Du dùng các ẩn dụ có sẵn trong truyền thống văn học được coi là tượng trưng cho những nét tâm lí nhất định.
Những hình ảnh, những điển cố luôn đi kèm với thái độ nhân vật. Nó giải thích thái độ tính cách của con người.
Dùng bút pháp tả thực diễn tả trực tiếp những tình ý của con người như nó vốn có.
Nghệ thuật ẩn dụ và hoán dụ: Được dùng để miêu tả tâm lí nhân vật làm cụ thể hơn về tâm lí.
Kết hợp bút pháp tả thực và tượng trưng ước lệ tạo nên một kết cấu động.
Tả người là một nghệ thuật đặc sắc, chứng tỏ rằng Nguyễn Du là bậc thầy trong việc phân tích tâm lí nhân vật. Đó có thể coi là nghệ thuật phân tích tâm lí một cách cổ điển và sáng tạo.
Thi pháp ước lệ: từ cảnh vật, ông đã khắc họa nên hình ảnh của con người với những nét đặc sắc của nó về số phận, tính cách và tâm lí ẩn sâu trong nhân vật.
Chân dung: từ cách xây dựng chân dung của nhân vật, Nguyễn Du đã khắc họa được số phận và tính cách của nhân vật ấy. Nhân vật mà ông quan tâm nhiều nhất đó là những con người mềm yếu, là người phụ nữ phải chịu số kiếp long đong và đau khổ.
Tâm lí: ông đi sâu vào tâm lí nhân vật hơn, thêm vào những đoạn tả cảnh, tả tình, làm cho nhân vật được thực hơn và gần với cuộc sống hơn.

C.  KẾT LUẬN


Giữa cuộc đời và sự nghiệp sáng tác có ảnh hưởng rất lớn với nhau. Cuộc đời là nền tảng, là cơ sở để tìm hiểu những giá trị về nội dung trong sáng tác của một nhà thơ. Ngược lại qua tác phẩm không chỉ giúp ta hiểu về một tác giả mà còn hiểu cả một thời đại mà tác giả đang sống. Nguyễn Du là một con người có tâm hồn lớn. Trước sự thay đổi của thời cuộc, tuy Nguyễn Du có chán chường, có lúc gần như tuyệt vọng song ông vẫn nhìn thẳng vào thực tế không quay lưng lại với cuộc đời như những người cùng thời (Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Hành…). Nguyễn Du đã trải qua những năm tháng sống cuộc đời bảy nổi ba chìm, ốm không thuốc, đói không có cơm ăn, sự nghiệp tiêu tan, người thân mỗi người mỗi ngã, bản thân trôi giạt… thế nhưng ông vẫn sống có ích cho cuộc đời. Là người sống trong gia đình quý tộc, đi đây đi đó nhiều nhìn thấy và thông hiểu tâm tư nguyện vọng của đại đa số quần chúng nhân dân, nên hơn ai hết ông có cái nhìn toàn diện về cuộc đời và phản ánh vào trong tác phẩm những vần thơ sâu sắc, như Chế Lan Viên từng viết: “ Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”.

D.  TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     Đoàn Thị Thu Vân (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam thế kỉ X – cuối thế kỉ XIX), NXB Giáo dục, 2008.
2.     Nguyễn Du, Truyện Kiều, NXB Văn học, 2008.

3.