MỤC LỤC
I. KHÁI QUÁT CHUNG
1. Tác giả Tào Tuyết Cần.
2. Tác phẩm Hồng Lâu Mộng.
2.1. Nhan đề
của tác phẩm
2.2. Tóm tắt
nội dung.
2.3. Giá trị
tác phẩm.
II. BIỂU HIỆN CỦA HUYỀN THOẠI“MỘC
THẠCH TIỀN MINH” TRONG TÁC PHẨM.
1.Hiện thân của Thần anh – Gia Bảo
Ngọc.
1.1. Khi còn
là Thần Anh - hòn đá thiêng ở núi Thanh Ngạnh
1.2. Số phận
của đá Thần Anh sau khi xuống trần hóa kiếp thành Giả Bảo Ngọc
1.2.1. Sự ra đời kỳ lạ của Giả Bảo Ngọc
1.2.2. Bản chất của Giả Bảo Ngọc- bản chất của đá, một con người tự
nhiên.
1.2.3. Mối quan hệ với cây Giáng Châu - Lâm Đại Ngọc
2. Hiện thân của Giáng Châu- Lâm Đại
Ngọc.
2.1. Khi còn
là Giáng Châu.
2.2.Bản chất
của Lâm Đại Ngọc- bản chất của một gốc cây.
2.3. Món nợ:
nước Cam lộ- nước mắt với Giả Bảo Ngọc.
3. Sự tương đồng giữa “thái hư ảo cảnh”
và “phủ Quốc vinh”.
III. Ý NGHĨA CỦA HUYỀN THOẠI“ MỘC
THẠCH TIỀN MINH” TRONG SUỐT TÁC PHẨM.
IV. KẾT LUẬN.
I. KHÁI QUÁT CHUNG.
1. Tác giả Tào Tuyết Cần.
Tào
Tuyết Cần (chữ Hán: 曹雪芹; bính âm: Cáo Xuěqín) (1724? -
1763?), tên thật là Tào Triêm (曹霑), tự là Mộng Nguyễn (梦阮), hiệu là Tuyết Cần, Cần Phố, Cần
Khê là một tiểu thuyết gia vĩ đại người Trung Quốc, tác giả của cuốn tiểu thuyết
Hồng Lâu Mộng, một trong tứ đại kỳ thư của văn học cổ điển Trung Quốc. Tổ tiên
ông vốn là người Hán ở Liêu Dương, sau đó tổ xa của ông là Tào Tuấn quy hàng
Mãn Châu, nhập tịch Mãn tộc.
2. Tác phẩm Hồng Lâu Mộng.
2.1 Nhan đề của tác phẩm
Hồng
lâu mộng Trung văn giản thể: 红楼梦;
phồn thể: 紅樓夢; bính âm: Hónglóu mèng hay tên gốc
Thạch đầu kí Trung văn giản thể: 石头记; phồn thể: 石頭記; bính âm: Shítóu jì là một trong bốn
kiệt tác (tứ đại kì thư) của văn học cổ điển Trung Quốc (3 kiệt tác kia là Tam
Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, Tây du kí của Ngô Thừa Ân và Thủy Hử của Thi
Nại Am). Tác phẩm được Tào Tuyết Cần sáng tác trong khoảng thời gian giữa thế kỉ
18 triều đại nhà Thanh của Trung Quốc. Với hơn 100 triệu bản được xuất bản, tiểu
thuyết này trở thành một trong những sách bán chạy nhất của mọi thời đại.
Tác
phẩm ra đời vào khoảng giữa thế kỉ XVIII, đời nhà Thanh, 80 hồi đầu do Tào Tuyết
Cần (曹雪芹) viết, 40 hồi sau do Cao Ngạc viết
thêm và soạn thành sách. Ngoài ra Hồng lâu mộng còn có một số tên khác như:
Thạch
Đầu Kí tức là chuyện Thần Anh đầu thai xuống hạ giới trả nợ tình duyên rồi lại
trở về kiếp đá.
Tình
Tăng lục hay Phong Nguyệt bảo giám
Thập
nhị kim thoa lấy chuyện mười hai cô gái đẹp trong truyện để đặt tên.
Kim
Ngọc kì duyên: Bảo Thoa có vàng, Bảo Ngọc có ngọc nên Bảo Ngọc lấy Bảo Thoa là
Kim Ngọc kì duyên.
Nhan
đề: “Thạch Đầu ký”.
Ban
đầu, Hồng Lâu mộng có tên là Thạch đầu ký. Thạch Đầu Ký thuộc loại tác phẩm
chương hồi, là một bộ trường thiên tiểu thuyết. Tào Tuyết Cần viết được 80
chương, theo các nhà nghiên cứu Trung Quốc, "chữ chữ đều toàn bằng máu và
nước mắt". Tác phẩm ấy có thể được xem là toàn bộ những hồi ức đau thương
của công tử Tào Tuyết Cần về những ngày vẻ vang và những ngày suy tàn của gia
đình mình, của giai cấp mình. Tuy nhiên, vượt lên khỏi những hồi ức đó, Thạch Đầu
Ký là tác phẩm với cái nhìn rất khách quan về bản chất ăn chơi, hưởng thụ của
giai cấp quan lại quý tộc, đặc biệt là quan lại quý tộc triều Thanh và sự suy
tàn của giai cấp ấy. Nói cách khác, khi xây dựng tác phẩm chương hồi này, Tào
Tuyết Cần vừa đứng trên vị thế chủ quan của một người trong cuộc, vừa đứng ở vị
thế khách quan của một chứng nhân.
Mới
viết dang dở được 80 chương, Tào Tuyết Cần qua đời.
2.2
Tóm tắt nội dung
Tác
phẩm xoay quanh câu chuyện tình duyên trắc trở giữa hai anh em con cô con cậu:
Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc, từ đó mô tả cuộc sống nhiều mặt của một đại gia
đình quý tộc đời Minh từ lúc cực thịnh cho đến lúc suy vi trong vòng tám năm.
Tiểu
thuyết mở đầu bằng một huyền thoại: Nữ Oa luyện đá ngũ sắc vá trời, luyện được
năm vạn lẻ một viên. Viên linh thạch còn thừa được đưa về trời chăm sóc cây
tiên Giáng Châu. Thần Anh và Giáng Châu duyên nợ, chịu ơn nhau nên phải đầu
thai xuống hạ giới để "lấy hết nước mắt của đời ta để trả lại cho
chàng". Từ đó dẫn ra bao nhiêu oan gia phong lưu đều phải xuống trần để trả
duyên nợ, sinh ra bao nhiêu chuyện sau này.
Đá
thiêng hóa thành Giả Bảo Ngọc. Cây thiêng hóa thành Lâm Đại Ngọc. Gia đình họ
Giả vốn có nhiều công lao với triều đình, số lượng kẻ hầu người hạ có lúc lên tới
448 người, sống trong hai tòa dinh cơ tráng lệ bậc nhất Kinh thành. Ninh Quốc
công và Vinh Quốc công là hai anh em ruột. Ninh Công là trưởng, sau khi mất con
lớn là Giả Đại Hóa tập tước. Con cả Giả Phụ mất sớm, con thứ Giả Kính tập tước.
Giả Kính chỉ say mê tu tiên luyện đan nên nhường cho con lớn Giả Trân tập tước,
con gái thứ là Giả Tích Xuân được đem sang ở trong phủ Vinh Quốc. Giả Trân (vợ
Vưu Thị) có một đứa con trai là Giả Dung (vợ là Tần Khả Khanh), hai cha con chẳng
chịu học hành, chỉ lo chơi bời cho thỏa thích, đảo lộn cả cơ nghiệp phủ Ninh.
Còn phủ Vinh, sau khi Ninh Công chết, con trưởng là Giả Đại Thiện tập tước. Sau
khi mất, Vợ Thiện là Giả mẫu (họ Sử) trở thành người cầm cân nảy mực của gia
đình. Giả mẫu có ba con, con trưởng là Giả Xá (vợ là Hình phu nhân) được tập tước.
Xá có con trai là Giả Liễn (vợ là Vương Hy Phượng) và con gái (con nàng hầu) là
Giả Nghênh Xuân. Em của Xá là Giả Chính (có vợ là Vương phu nhân) được Hoàng
thượng đặc cách phong tước. Giả Chính có ba người con, con lớn Giả Châu (vợ là
Lý Hoàn) mất sớm, để lại một con trai là Giả Lan; con gái thứ Nguyên Xuân tiến
cung làm phi tử ; Giả Bảo Ngọc là cậu ấm hai, sinh ra đã ngậm một viên
"Thông linh Bảo Ngọc", là niềm hi vọng của gia đình họ Giả. Ngoài ra
còn có Giả Thám Xuân và Giả Hoàn là con của nàng hầu Triệu Di Nương. Giả Chính
và Giả Xá còn có một em gái tên Giả Mẫn, lấy chồng là Lâm Như Hải người Cô Tô,
làm quan Diêm chính thành Duy Dương, có một cô con gái tên Lâm Đại Ngọc. Bố mẹ
mất sớm, Đại Ngọc được Giả mẫu đem về nuôi trong phủ Vinh Quốc.
Trong
Vinh quốc phủ còn có gia đình của Tiết phu nhân, vốn là em gái Vương phu nhân,
cùng con trai cả Tiết Bàn và con gái Tiết Bảo Thoa vừa vào Kinh cùng đến ở.
Tình
Văn đang ốm vùng dậy vá áo cừu
Vì
con gái của Giả Chính là Nguyên Xuân được vua phong là Nguyên phi nên để mỗi lần
về tỉnh thân, phủ Vinh quốc cho xây dựng vườn Đại quan cực kì tráng lệ huy
hoàng. Khu vườn Đại quan này chỉ dành cho 12 cô tiểu thư xinh đẹp của hai phủ
Vinh và phủ Ninh lui tới vui chơi. Giả Bảo Ngọc là cậu ấm duy nhất được lui tới
và tìm được người tâm đầu ý hợp là Lâm Đại Ngọc. Nhưng mọi người trong gia đình
không muốn cuộc hôn nhân này diễn ra. Lâm Đại Ngọc là người con gái dung mạo
tuyệt sắc, là một tâm hồn thi phú đích thực nhưng vô cùng nhạy cảm và mảnh mai,
lại cám cảnh ăn nhờ ở đậu nên tính tình càng thêm sầu bi, cô độc. Cho nên nàng
thương hoa, khóc hoa, chôn hoa, tâm hồn nàng như một sợi tơ đàn mảnh mai, bất kể
một giọt mưa thu hay tơ liễu bay đều âm vang một điều bi thương đứt ruột. Nàng
cho rằng Bảo Ngọc không cần thi cử, làm quan; lánh xa công danh phú quý. Trong
khi đó, Bảo Thoa, người con gái đài các, sắc sảo, đức hạnh theo đúng khuôn phép
chuẩn mực phong kiến lại luôn khuyến khích Bảo Ngọc học hành đỗ đạt để lọt vào
tầm ngắm của các bậc huynh trưởng trong dòng họ. Lúc đầu, Bảo Ngọc còn phân vân
trước tình yêu của Bảo Thoa, "gần cô chị thì quên khuấy cô em"; song
dần dần, nhận thấy Bảo Thoa chỉ mong ngóng cái danh "lập thân", nên Bảo
Ngọc đã dành trái tim mình cho Đại Ngọc, mong muốn lấy nàng làm vợ. Gia đình họ
Giả coi đó là một tai họa.
Phần
sau :
Trong
lúc thế lực của hai phủ họ Giả bị lung lay do mắc tội với triều đình, cả hai phủ
đều bị phân li, kẻ chết người đi đày, trong một cố gắng cuối cùng nhằm cứu vãn
gia tộc, Phượng Thư (chị dâu của Bảo Ngọc) đã đặt kế tráo hôn. Khi mở khăn che
mặt cô dâu thấy không phải Đại Ngọc, Bảo Ngọc bỏ đi, về sau hóa thành đá. Lâm Đại
Ngọc nghe tiếng pháo đám cưới của Bảo Ngọc, uất ức phát bệnh, ho ra máu mà chết.
Kết thúc pho truyện là một khúc nhạc ai oán cho cuộc sống vương giả như mây tan
bèo dạt, như một "giấc mộng trong chiếc lầu hồng" như một sự chiêm
nghiệm về lẽ đời của họ Tào.
Cũng
có một kết thúc khác là sau đám cưới ấy, Lâm Đại Ngọc chết, còn Bảo Ngọc chấp
nhận sống với Bảo Thoa. Sau này, gia đình lung lay, bị tịch thu tài sản, Giả
Chính đi làm quan xa nhà, luôn viết thư về giục giã hai chú cháu Bảo Ngọc và Giả
Lan học hành chăm chỉ. Cuối cùng, Bảo Ngọc và Giả Lan đều đỗ cử nhân, nhưng
ngay sau đó Bảo Ngọc bỏ nhà đi tu. Bảo Thoa thì đang mang thai đứa bé - hi vọng
của nhà họ Giả. Nhưng cái kết này không được độc giả yêu thích, cũng có thuyết
cho là của người sau thêm vào.
2.3
Giá trị nghệ thuật
Hồng
lâu mộng không những có một nội dung mới mang ý nghĩa thời đại, nó còn làm được
một việc lớn lao nữa là đổi mới thi pháp tiểu thuyết Trung Quốc. Tiểu thuyết Trung Quốc trước đây,
chủ yếu là tiểu thuyết chương hồi như Tam quốc chí diễn nghĩa, Thủy hử, Tây du
ký... thiên về mô tả hành động, miêu tả hoạt động bên ngoài và lời nói của nhân
vật. Con người trong những tiểu thuyết đó, còn giản đơn, nhất quán trong một
tính cách, rạch ròi trung, nịnh đôi đường. Những truyện ngắn “truyền kì”, những
truyện ngắn trong Liêu Trai chí dị (5) đã bắt đầu thấm đẫm màu sắc con người thị
dân với những khát vọng nồng nhiệt hơn, phức tạp hơn nhưng vẫn chưa có một thi
pháp tiểu thuyết thực sự phản ánh một cách nhìn mới về con người. Hồng lâu mộng
đã làm được việc đó.
Tào
Tuyết Cần có tư tưởng tiến bộ nên Hồng lâu mộng có ý nghĩa phê phán xã hội
phong kiến sâu sắc. Nhưng nếu ông thiếu cái khả năng biểu hiện nghệ thuật thật cao, thì sức mạnh
của nhà nghệ sĩ ở ông không thể phát huy được xuất sắc như thế. Tào Tuyết Cần một
mặt kế thừa kinh nghiệm sáng tác của các tác gia thời đại trước, mặt khác mở đường
và sáng tạo thêm, đưa nghệ thuật sáng tác tiểu thuyết cổ điển lên đỉnh cao mới.
Thành tựu to lớn của Hồng lâu mộng trước
hết thể hiện ở nghệ thuật xây dựng nhân vật, và điều đặc biệt là xây dựng rất
nhiều nhân vật cùng một lúc. Trong đó có nhiều nhân vật đều do tác giả
dựa vào đời sống mà sáng tạo nên và điều đặc sắc là “loại kiểu” nhân vật này xuất
hiện lần đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc. Những nhân vật đó sống động,
có máu thịt, có cá tính rõ nét. Có một số nhân vật nhà văn chỉ phác họa sơ qua
vài nét cũng để lại ấn tượng rất sâu sắc cho người đọc. Đáng chú ý là, trong Hồng
lâu mộng, Tào Tuyết Cần miêu tả nhiều nhất là phụ nữ, mà chủ yếu lại là những
thiếu nữ giống nhau hoặc na ná như nhau về độ tuổi, hoàn cảnh sống, cách sống.
Rõ ràng điều đó làm cho việc miêu tả gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng Tào Tuyết Cần
không những có thể miêu tả được hết sức rõ ràng cá tính của từng người, mà đến
cả những tính cách gần giống nhau, chỉ khác ở những nét đặc trưng hết sức tinh
tế, cũng được ông khắc họa rõ ràng tỉ mỉ. Ví dụ tính ôn hòa, nhân hậu, dịu dàng
của Bình Nhi khác với tính ôn hòa, nhân hậu, dịu dàng của Tập Nhân ; tính phóng
khoáng bộc trực của Sử Tương Vân khác với tính phóng khoáng bộc trực của chị ba
Vưu ; Lâm Đại Ngọc và Diệu Ngọc đều có tính kiêu kì, cô độc, nhưng họ lại có điểm
khác nhau, một người nhập thế, còn người kia thì xuất thế. Tính kiêu kì cô độc ở
Lâm Đại Ngọc khiến người ta cảm thấy nóng, nhưng cũng tính này ở Diệu Ngọc lại
làm cho người ta thấy lạnh. Quả là “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”! Chính
vì vậy, Hồng lâu mộng còn có lúc được người ta gọi là Thập nhị kim thoa!
Đặc
điểm về mặt sáng tác Nghệ thuật của Hồng Lâu Mộng là Chủ nghĩa hiện thực nghiêm
ngặt.
Bộ tiểu thuyết sở dĩ sinh động, tự nhiên đến mức hầu như không thấy được dấu vết
tô vẽ gì cả, là có quan hệ mật thiết với đặc điểm ấy. Khi miêu tả, tác giả đã
phản ánh tỉ mỉ sâu sắc nhưng lại khái quát cao độ bộ mặt chân thực của cuộc sống.
Mỗi người mỗi việc, tác giả không hề xử lý giản đơn, như trong hồi mở đầu cuốn
sách, ông đã nói: “Đều là theo dấu tìm vết, không dám thêm bớt xuyên tạc”.
Chính vì vậy mà HLM càng tỏ ra tự nhiên, giống thật mà lại phong phú muôn màu
muôn vẻ như chính bản thân cuộc sống vậy.
Hồng
lâu mộng là một bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội phong kiến Trung Quốc
trên con đường suy tàn. Cái vẻ ngoài tôn nghiêm nền nếp không che đậy được thực
chất mục ruỗng của giới thượng lưu sống trong Giả phủ. Cuộc sống xa hoa, dâm ô
cố hữu của giai cấp bóc lột và những mối quan hệ tàn nhẫn giữa họ với nhau đã
đưa Giả phủ vào con đường suy tàn không cứu vãn được. Đó chính là hình ảnh thu
nhỏ của xã hội Trung Quốc đời Thanh. Cái cảm giác "cây đổ vượn tan",
"chim mỏi về rừng" đã chi phối ngòi bút Tào Tuyết Cần, chứng tỏ ông
là nhà văn hiện thực báo hiệu buổi hoàng hôn của chế độ phong kiến. Với nhãn
quan của một người có tư tưởng dân chủ, nhà văn còn nhìn thấy những con người mới
mang tư tưởng phản truyền thống. Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc chính là những đứa
con "bất hiếu" của gia đình mình, họ chống quan niệm trọng nam khinh
nữ truyền thống, chán ghét khoa cử công danh, theo đuổi một cuộc sống tự do, chống
lại khuôn phép ràng buộc. Họ yêu nhau vì phản nghịch, càng phản nghịch họ càng
yêu nhau. Đó là hồi âm của cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa tư tưởng
dân chủ sơ khai và tư tưởng phong kiến.
II. BIỂU HIỆN CỦA HUYỀN THOẠI"MỘC THẠCH TIỀN
MINH" TRONG TÁC PHẨM"HỒNG LÂU MỘNG"
1.Hiện thân của Thần Anh - Giả Bảo Ngọc
1.1 Khi còn là Thần Anh - hòn đá thiêng
ở núi Thanh Ngạnh
Nói đến Thần Anh thì chúng ta liên hệ
một phần đến huyền thoại "Nữ Oa luyện đá vá trời". Khi xưa Nữ Oa luyện
đá vá trời ở đỉnh Vô Kê trên núi Đại Hoang, luyện được ba vạn sáu nghìn năm
trăm linh một viên, mỗi viên cao mười hai trượng. Nhưng bà chỉ dùng ba vạn sáu
nghìn năm trăm viên, còn thừa lại một viên bỏ lại ở chân núi Thanh Ngạnh thì Thần
Anh chính là viên đá đó. Sau khi hưởng được những tinh hoa của trời đất và tu
luyện thì viên đá này đã có linh tính. Ngay từ lúc ra đời số phận của Thần Anh
đã gặp nhiều truân chuyên, vốn Thần Anh ra đời vì một nhiệm vụ hết sức cao cả
là dùng để vá trời nhưng Thần Anh lại bị bỏ lại, không được dùng đến nên Thần
Anh luôn cảm thấy mình vô tài, bị loại nên hết sức tủi thân. Một ngày Thần Anh
thấy có hai vị nhà sư và đạo sĩ đi ngang qua cốt cách phong độ khác thường, cười
cười nói nói, tù xa đi đến rồi dừng và ngồi bên hòn đá nói chuyện. Lúc đầu khi
nghe hai vị bàn đến chuyện mây núi, bể mù, thần tiên, huyền ảo,... thì nó không
quan tâm nhưng đến khi nghe hai vị bàn đến việc trần gian thì nó hết sức chú
tâm và ý nghĩ muốn xuống cõi trần để mà hưởng vinh hoa phú quý của Thần Anh dần
được hình thành. Nhà sư sau khi nghe nổi lòng của Thần Anh động lòng niệm chú,
viết bùa biến Thần Anh từ viên đá xù xì thành một viên ngọc báu sáng long lanh,
thu hình lại nhỏ bằng viên ngọc nhỏ đeo dưới dây quạt. Nhưng dù hóa thành một
viên ngọc nhưng hiềm một nổi là không có giá trị thực nên nhà sư đã khắc vào
vài chữ để mọi người trông thấy biết ngay là vật lạ. Dù đã được hai vị nhà sư
và đạo sĩ khuyên ngăn "Ngọc lành có vết, việc đời đa đoan" tưởng
nhưng Thần Anh vẫn nhất quyết đòi xuống trần, chúng ta thấy ở đây có sự xuất hiện
của mô-típ tiên giáng trần. Nếu như các vị tiên kia giáng trần vì vi phạm thiên
quy bị đày xuống trần thì Thần Anh xuống trần vì động lòng phàm tục, ham vinh
hoa phú quý nơi trần thế, khao khát trần giang.
Nếu huyền thoại "Nữ Oa luyện đá
vá trơi" hiện ra một cách hiện thực thì huyền thoại "Mộc thạch tiền
minh" lại được kể một cách mờ ảo, nó thông qua giấc mộng của Chân Sĩ Ẩn- một
nhà hương hoạn,tính tình điềm đạm, không thích công danh lợi lộc, đến tuổi năm
mươi mà chỉ có một mụn con gái tên là Liên Anh mới lên ba tuổi. Giữa một lúc
mùa hạ ngày dài, Sĩ Ẩn ngồi rỗi trong thư phòng, mỏi tay buông sách, ngủ gục xuống
ghế. Trong lúc mơ màng thì thấy mình đi đến một chổ và không biết thuộc địa
phương nào, chợt gặp được một vị đạo sĩ. Sau khi trò chuyện và tìm hiểu thì mới
biết rằng vị đạo sĩ đang trên đường đưa bọn oan gia phong lưu đổi kiếp xuống trần
và được nghe đến huyền thoại "Mộc thạch tiền minh".
1.2 Số phận của đá Thần Anh sau khi xuống
trần hóa kiếp thành Giả Bảo Ngọc
1.2.1 Sự ra đời
kỳ lạ của Giả Bảo Ngọc
Xoay quanh nhân vật Giả Bảo Ngọc, anh
ta chính là hiện thân của Thần Anh (hòn đá thiêng) làm chức chầu chực ở cung
Xích Hà ngày ngày lấy nước cam lộ tưới bón cho cây Giáng Châu. Sau một thời
gian hấp thụ tinh hoa hấp thụ tinh hoa của trời đất lại được nước cam lộ chăm
bón nên Giáng Châu thoát được hình cây, hóa thành hình người, tu luyện thành
người con gái. Sau một thời gian thì Thần Anh bị lửa trần rực cháy trong lòng
nhân gặp đời thái bình thịnh vượng muốn xuống cõi trần để qua kiếp “ảo duyên”,
nên đã đến trước mặt vị tiên Cảnh Ảo ghi sổ. Sau hóa kiếp xuống trần, Thần Anh
đầu thai vào gia đình họ Giả, làcon thứ 3 của Giả Chính và vợ là Vương thị.C
huyện lạ là trước khi Giả Bảo Ngọc chào đời, Vương thị đã sinh đứa con đầu lòng
là Giả Châu, mười bốn tuổi thi đỗ tú tài, lấy vợ sinh con, nhưng chưa đến hai
mươi tuổi thì ốm chết. Con thứ hai là con gái, đẻ đúng ngày mùng một tháng
giêng cũng lag sự lạ. Mấy năm sau lại sinh tiếp một vị công tử. Chuyện lai càng
lạ hơn khi lọt lòng, trong miệng cậu ta ngậm một hòn ngọc ngũ sắc, trên hòn ngọc
có ghi nhiều chữ nên đặt tên là Bảo Ngọc và một điều trùng hợp là ngày Giả Bảo
Ngọc ra đời ngày Giả Châu mất. Ngay từ cái tên của nhân vật ta nhận thấy được mối
liên hệ của hai nhân vật này "Châu" và "Ngọc" là hai thứ
quý giá đối với người trần gian
1.2.2 Bản chất
của Giả Bảo Ngọc - bản chất của 1 hòn đá, 1 con người tự nhiên.
Ngay từ khi sinh ra cho đến khi trưởng
thành thì tính cách của Bảo Ngọc đã giống phần nào tích cách của Thần Anh. Nếu
Thần Anh bị lửa trần rực cháy và muốn xuống cõi trần để qua kiếp “ảo duyên” thì
Giả Bảo Ngọc ngay tù mới sinh ra đã khác thường “ Khi đầy năm, Giả Chính (cha của
Giả Bảo Ngọc) muốn thử chí hướng của con về sau thế nào mới đem những đồ chơi
bày r trước mặt để xem nó quờ lấy cái gì. Ngờ đâu nó chẳng lấy gì, mà chỉ quờ lấy
phấn sáp, trâm vòng”. Rồi khi khi lên bảy, lên tám thì tính khí ngang ngược
nhưng rất thông minh và chỉ thích chơi với nữ nhi nó nói: “Xương thịt của con
gái là nước kết thành, xương thịt của con trai là bùn kết thành. Tôi trông con
gái thì như bị người tôi nhẹ nhàng, khoan khoái trông thấy con trai thì nhử bị
phải hơi dơ bẩn”. Đá cũng là từ bùn, bản chất của Giả Bảo Ngọc cũng là bản chất
của một viên đá. Bởi vì ngay từ đầu Giả Bảo Ngọc chính là một viên đá khi xuống
trần thì thành viên ngọc quý, vì đối với người trần thì bất kì vật gì của tiên
giới cũng điều đẹp và quý nhưng trong con mắt của tiên giới thì nó cũng chỉ là
viên đá. Giả Bảo Ngọc ý thức được bản chất của mình, cũng là do bùn đất kết
thành, mang bản chất của một viên đá, một bản chất hết sức tự nhiên, con người
tự nhiên chống lại tất cả những thứ ràng buộc, quy định của chế độ phong kiến đối
với con người. Chẳng hạn như không coi trọng việc học hành, thi cử, nếu xã hội
phong kiến tồn tại "trọng nam khinh nữ" thì Giả Bảo Ngọc lại quyết
"trọng nữ khinh nam". Anh ta phản bác, chống lại những luật lệ, ràng
buộc của xã hội, cái gì xã hội phong kiến đề cao thì anh ta phủ nhận hết, không
đi vào khuôn phép của xã hội mà chỉ sống tự nhiên như thế, sống bằng bản tính tự
nhiên của mình.
Để khẳng định bản chất tự nhiên của Giả
Bảo Ngọc, trong "Hồng lâu mộng" còn có sự xuất hiện của nhân vật Chân
Bảo Ngọc. Hai nhân vật này hoàn toàn giống nhau về ngoại hình ngoài giống hệt
nhau, đến mức Giả Bảo Ngọc đến nhà họ Chân bị mọi người lầm tưởng là Chân Bảo
Ngọc. Chân Bảo Ngọc vào phủ Giả, đến như Giả Mẫu vẫn tưởng đó là cháu yêu Giả Bảo
Ngọc. Thứ hai, có mối liên hệ đặc biệt với nữ giới, cả hai đều yêu mến, tôn trọng
phụ nữ, đồng thời cũng luôn được nữ giới chở che, bảo bọc. Nếu ngay từ bé, Giả
Bảo Ngọc cho rằng "Xương thịt của con gái là nước kết thành" thì Chân
Bảo Ngọc lại bảo "Khi nói đến phụ nữ thì đàn ông nên súc miệng bằng trà
thơm rồi hẵn nói và đối với phụ nữ tôi còn trân trọng hơn cả Ngọc hoàng".
Điểm khác nhau giữa hai nhân vật này chính là Giả Bảo Ngọc khinh thường khoa cử
công danh bao nhiêu thì Chân Bảo Ngọc lại tỏ ra khao khát bấy nhiêu. Trước khi
gặp Chân Bảo Ngọc, Giả Bảo Ngọc vô cùng háo hức những tưởng gặp được tri kỉ.
Trò chuyện không lâu, Giả Bảo Ngọc đã không thể chịu nổi vì những lời mà Chân Bảo
Ngọc nói ra chẳng khác gì giọng lưỡi của bọn “mọt ăn lộc”.Nếu Giả Bảo Ngọc là một
viên ngọc giả thì Chân Bảo Ngọc là một viên ngọc thật, hai nhân vật này bổ sung
và soi chiếu cho nhau, Giả Bảo Ngọc là con người của tự nhiên và Chân Bảo Ngọc
là con người của xã hội, hai nhân vật này vừa tương đồng vừa đối lập, đối lập
nhưng để bổ sung cho nhau, không phải là cái này triệt để cái kia bởi trong một
con người vừa tồn tại con người tự nhiên và con người xã hội.
Qua bản chất tự nhiên của Giả Bảo Ngọc
ta nhận thấy cái nhìn sâu sắc của Tào Tuyết Cần. Số phận và tính cách của Bảo
Ngọc đã được tác giả miêu tả không đơn giản. Đó là mâu thuẫn giữa khát vọng tự
do và sự ràng buộc nặng nề của gia đình và xã hội phong kiến. Đó là tình yêu
chân thành và quý báu như chính sinh mệnh của anh ta và lạ thay, anh ta hầu như
chẳng làm được gì, chẳng chiến đấu dũng manh gì để đoạt lấy hạnh phúc! Mọi việc
gần như đã phó mặc! Trước khi chết, Lâm Đại Ngọc oán giận, đau buồn đốt khăn tặng,
đốt tập thơ..., không phải là không có lý! Anh ta chưa bao giờ xứng đáng là một
trang “tu mi nam tử” có lý tưởng, kiên định! Vấp phải những mâu thuẫn nghiệt ngã
của thời đại, anh ta sinh ra đau thần kinh, mắc chứng “ngây”, cứ cười hì hì suốt
ngày. Điều đó càng đẩy sâu anh ta vào bi kịch.
1.2.3 Mối quan hệ với cây Giáng Châu - Lâm Đại Ngọc
Giả Bảo Ngọc có nghĩa là viên ngọc quý
gia bảo, xuất thân là một công tử quyền quý trong nhà họ Giả và có những mối
tình ngang trái với những cô gái trong gia đình này. Giả Bảo Ngọc khi sinh ra
đã ngậm một viên "Thông linh Bảo Ngọc", là niềm hi vọng của gia đình
họ Giả.
Giả Bảo Ngọc là cậu ấm duy nhất được
lui tới và tìm được người tâm đầu ý hợp là Lâm Đại Ngọc. Nhưng mọi người trong
gia đình không muốn cuộc hôn nhân này diễn ra. Lâm Đại Ngọc cho rằng Giả Bảo Ngọc
không cần thi cử, làm quan và lánh xa công danh phú quý nhưng Bảo Thoa, chị họ,
và cũng là một người yêu khác của Bảo Ngọc lại luôn khuyến khích Bảo Ngọc học
hành đỗ đạt để lọt vào tầm ngắm của các bậc huynh trưởng trong dòng họ. Lúc ban
đầu, Bảo Ngọc còn phân vân trước tình yêu của Bảo Thoa và Đại Ngọc song dần dần,
nhận thấy Bảo Thoa chỉ mong ngóng cái danh cái lợi, nên Bảo Ngọc đã hết lòng
yêu Đại Ngọc, mong muốn lấy nàng làm vợ. Gia đình họ Giả coi đó là một tai họa
và kiên quyết phản đối đôi uyên ương này. Trải qua nhiều biến cố và sóng gió
nhưng Bảo Ngọc không lấy được Đại Ngọc nên phẩn uất hộc máu mà chết.
Dù khi còn là Giáng Châu và Thần Anh
hay khi xuống trần hóa kiếp thành Lâm Đại Ngọc
và Giả Bảo Ngọc giữa hai nhân vật
này vẫn tồn tại một mối quan hệ. Khi còn ở chốn thần tiên thì Thần Anh đã bên cạnh
tưới nước Cam lộc giúp Giáng Châu phát triển và hóa thành hình một cô gái thì ở
kiếp trần thế cả hai lớn lên bên nhau thành một cặp song ngọc, tuy cả hai thường
cãi vã hờn giận nhưng tình cảm lại vô cùng thắm thiết, họ hiểu nhau và thông cảm
cho nhau sâu sắc. Cả hai 2 nhân vật Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc dường như ngờ
ngợ biết kiếp trước và duyên nợ của nhau. Đại Ngọc vẽ tranh họa ngọn cỏ yểu điệu
thướt tha lại giữ mấy viên đá bày trên giá sách của mình khiến Bảo Ngọc trông
thấy, xúc động mà làm thơ:
“Yêu quý một hòn đá, lung linh từ tự
nhiên
Lai lịch từ ngày xưa trần thế tự bao
giờ
Có chí nên toàn vẹn, bất tài nên vá trời.
Không
mong được ban thưởng tự do trở thành tiên”
Bên cạnh đó, Hồng lâu mộng thập nhị
khúc cũng góp phần dự báo cuộc đời các nhân vật chính trong tiểu thuyết. Khúc
giáo đầu nói về những kẻ si tình nói chung. Khúc thứ nhất “Chung thân ngộ”, một
lần nữa Đại Ngọc và Bảo Thoa được đặt trong thế đối xứng cây-ngọc-vàng để cuối
cùng là bi kịch tình yêu của Đại Ngọc và bi kịch hôn nhân của Bảo Thoa. Khúc thứ
hai “Uổng ngưng mi” như lời dự báo, thở than cho mối tình đầy nước mắt của Bảo
Ngọc và Đại Ngọc.. Rõ ràng mối duyên tiền định " Mộc thạch tiền
minh" của Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc là một
sợi dây xuyên suốt tác phẩm nối kết bao nhiêu sự kiện bề bộn lại với nhau.
Nhưng bao trùm lên thiên tiểu thuyết ấy là một ý nghĩa xã hội rộng lớn dưới thời
phong kiến Mãn Thanh đang trên đà thoái trào.
2. Hiện thân của Giáng Châu - Lâm Đai Ngọc
2.1 Khi còn là cây Giáng Châu
Theo huyền
thoại mở đầu tác phẩm qua lời của Không Không Đại sư trong mộng ảo của Chân Sỉ Ẩn
thì nhờ sự giúp đỡ của Thần Anh, Giáng Châu đã hấp thụ tinh hoa của trời đất, lại
được nước cam lộ do Thần Anh chăm bón, cây Giáng Châu thoát được hình cây, hóa
thành hình người, tu luyện thành người con gái, suốt ngày rong chơi ngoài cõi
trời Ly Hận đói thì ăn quả “Mật Thanh” khát thì uống nước bể “quán sầu”. Chỉ vì
chưa trả được ơn bón tưới, cho nên trong lòng nó vẫn mắc míu, khi nào cũng cảm
thấy như còn vương một mối tình gì đây. Gần đây, Thần Anh bị lửa trần rực cháy
trong lòng, nhân gặp trời đất thái bình thịnh vượng muốn xuống cõi trần để qua
kiếp “ảo duyên”, nên đã đến trước mặt vị tiên Cảnh ảo ghi sổ. Cảnh ảo liền hỏi
đến mối tình bón tưới, biết chưa trả xong, muốn nhân đó để kết liễu câu chuyện.
Nàng Giáng Châu nói: “Chàng ra ơn mưa móc mà ta không có nước để trả lại. Chàng
đã xuống trần làm người, ta cũng phải đi theo. Ta lấy hết nước mắt của đời ta để
trả lại chàng, như thế mới trang trải xong!”. Vì thế dẫn ra bao nhiêu oan gia
phong lưu đều phải xuống trần, để kết liễu án đó.
Cây thiêng
giáng trần thành Lâm Đại Ngọc. Đại Ngọc là con gái của Lâm Như Hải và Giả Mẫn.
Lâm Như Hải là người Cô Tô, đỗ Thám hoa, bổ là Tuần diêm ngự sử thành Duy
Dương, mất năm Đại Ngọc khoảng 14 tuổi. Giả Mẫn vốn là con út của Giả Đại Thiện
và Sử Thái Quân phủ Vinh Quốc, em ruột của Giả Xá, Giả Chính, mất năm Đại ngọc
mới 5 tuổi. Đại Ngọc từ bé lớn lên ở thành Dương Châu, là con gái một nên được
bố mẹ yêu quý như ngọc, lại được mời thầy là Giả Vũ Thôn về dạy học. Đến năm Đại
Ngọc lên năm thì mẹ mất. Tang ma xong, Giả mẫu đón cháu gái về Kinh để tiện
chăm sóc. Vừa gặp Đại Ngọc, Bảo Ngọc đã cảm thấy quyến luyến sâu sắc. Cuộc sống
trong Giả phủ xa hoa lộng lẫy nhưng vô cùng phức tạp, đầy rẫy những chuyện dâm
ô lường gạt. Tuy được Giả mẫu yêu chiều, đồ ăn thức mặc đều nhất nhất như Bảo
Ngọc nhưng vẫn không khỏi bị cảm giác là "nữ nhân ngoại tộc". Đến năm
14 tuổi thì Lâm Như Hải cũng qua đời. Đại Ngọc từ đó mồ côi cả cha lẫn mẹ,
không người thân thích, phải ăn nhờ ở đậu hoàn toàn. Nàng đã ốm yếu từ khi sinh
ra, thân thể mỏng manh như cánh hoa trôi bèo dạt, lại thêm tủi phận khiến tâm hồn
vốn đã đa cảm lại ngày một nhiều sầu nhiều bệnh, hay nghĩ ngợi, để ý, lại hay tự
ái. Nàng và Bảo Ngọc lớn lên bên nhau thành một cặp song ngọc, tuy cả hai thường
cãi vã hờn giận nhưng tình cảm lại vô cùng thắm thiết, họ hiểu nhau và thông cảm
cho nhau sâu sắc. Giữa lúc đó, có một người thứ ba xuất hiện. Đó là Tiết Bảo
Thoa, đôi bạn con dì với Bảo Ngọc, cũng đến Giả phủ ở nhờ. Nàng dường như đối
nghịch với Đại Ngọc, xinh đẹp đầy đặn như trăng rằm, cao sang, quý phái, lại nền
nã đức hạnh theo đúng những khuôn thước phong kiến. Bảo Ngọc nhiều lúc cũng
rung động trước Bảo Thoa nhưng nhận ra nàng chỉ luôn muốn hướng cậu theo con đường
công danh lập thân mà cậu chán ghét nên dần dần trái tim bảo Ngọc dành hẳn cho
Đại Ngọc, người duy nhất hiểu Bảo Ngọc và không khuyên cậu đi thi đỗ đạt làm
quan. Nhưng nhà họ Giả coi đó là tai họa nên mong muốn Bảo Ngọc thành thân với
Bảo Thoa. Phượng Thư, chị dâu của Bảo Ngọc, dùng kế "tráo dường đổi cột"
để lừa Bảo Ngọc cưới Bảo Thoa. Đại Ngọc đau khổ tuyệt vọng nên mang tâm bệnh.
Nàng đốt thơ, đốt khăn để dứt tình rồi chết trong nỗi uất ức, oán hận trong lúc
cả nhà mừng đám cưới Bảo Ngọc.
Trong tác phẩm
chúng ta nhận thấy dường như 2 nhân vật Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc dường như
ngờ ngợ biết kiếp trước và duyên nợ của nhau. Đại Ngọc vẽ tranh họa ngọn cỏ yểu
điệu thướt tha lại giữ mấy viên đá bày trên giá sách của mình khiến Bảo Ngọc
trông thấy, xúc động mà làm thơ:
“Yêu quý một
hòn đá, lung linh từ tự nhiên
Lai lịch từ ngày
xưa trần thế tự bao giờ
Có chí nên
toàn vẹn, bất tài nên vá trời.
Không mong
được ban thưởng tự do trở thành tiên”.
2.2.Lâm Đại Ngọc- Bản chất một gốc
cây.
Tiểu thuyết
mở đầu bằng một huyền thoại: Nữ Oa luyện đá ngũ sắc vá trời, luyện được năm vạn
lẻ một viên. Viên linh thạch còn thừa được đưa về trời chăm sóc cây tiên Giáng
Châu. Thần Anh và Giáng Châu duyên nợ, chịu ơn nhau nên phải đầu thai xuống hạ
giới để "lấy hết nước mắt của đời ta để trả lại cho chàng". Từ đó dẫn
ra bao nhiêu oan gia phong lưu đều phải xuống trần để trả duyên nợ, sinh ra bao
nhiêu chuyện sau này.
Cây thiêng
hóa thành Lâm Đại Ngọc có thể do vậy mà nàng mang bản chất là một gốc cây, Nàng
đã ốm yếu từ khi sinh ra, thân thể mỏng manh như cánh hoa trôi bèo dạt, lại
thêm tủi phận khiến tâm hồn vốn đã đa cảm lại ngày một nhiều sầu nhiều bệnh,
hay nghĩ ngợi, để ý, lại hay tự ái. Nàng và Bảo Ngọc lớn lên bên nhau thành một
cặp song ngọc, tuy cả hai thường cãi vã hờn giận nhưng tình cảm lại vô cùng thắm
thiết, họ hiểu nhau và thông cảm cho nhau sâu sắc. Giữa lúc đó, có một người thứ
ba xuất hiện..
Đại Ngọc
ngây thơ, đẹp đến lạ, nàng đau khổ tuyệt vọng mà mang nên tâm bệnh, nàng đốt
thơ, đốt khăn để dứt tình rồi chết trong nỗi uất ức, oán hận trong lúc cả nhà mừng
đám cưới Bảo Ngọc.
Phải chăng
chính vì mang bản chất một gốc cây, nàng không thể làm gì để giữ được hạnh
phúc, tình yêu của mình, nàng chỉ yêu Bảo Ngọc bàng cả trái tim thê nhưng nàng
bất lực, tuyệt vọng nhìn người yêu lấy người khác đến sinh bệnh. Gốc cây dù sống
gió bảo táp vẫn không thể di chuyển, không thay đổi vị trí của mình được, phải
hứng chịu mưa giông bảo táp, cây cần được chăm sóc, tưới bón hằng ngày phải vậy
mới phát triển toàn diện được. Cũng như
Đại Ngọc khi hóa thân từ cây Giáng Châu đã cần được chăm sóc, gia đình cũng
khá giả thế nhưng mất mát khi gia đình xảy ra tai ương phải sống nhờ nhà họ hàng và gặp được Bảo Ngọc- Bảo
Ngọc chính là người che chở, người mà nàng tin tưởng và yêu thương nhất, nàng cần
được chăm sóc.
Thế nhưng thật
trớ trêu khi số phận không như nàng muốn kể từ khi xuất hiện Bảo Thoa xinh đẹp
đầy đặn như trăng rằm, cao sang, quý phái, lại nền nã đức hạnh theo đúng những
khuôn thước phong kiến thì mọi chuyện đã thay đổi, tuy vẫn yêu nàng nhưng Bảo
Ngọc đã có lúc lung lay trước sắc đẹp của Bảo Thoa. Đại Ngọc đã mỏng manh, yếu
đuối, chỉ có Bảo Ngọc che chở nay càng âu sầu, lẻ loi, chẳng biết chia sẻ cùng
ai, nàng chỉ biết ngắm và nhìn những cánh hoa rơi và khóc, khóc cho hoa tàn cũng
chính là khóc cho số phận mỏng manh của mình. Nàng chả biết làm gì ngoài âu
sâu, nét mặt nàng buồn đến khó tả, lúc đó nàng càng đẹp thế nhưng nhà họ Giả
coi đó là tai họa nên mong muốn Bảo Ngọc thành thân với Bảo Thoa. Phượng Thư,
chị dâu của Bảo Ngọc, dùng kế "tráo dường đổi cột" để lừa Bảo Ngọc cưới
Bảo Thoa.
Số phận nàng
từ đây chìm hẳn trong đau khổ, lụi tàn theo năm tháng, bản chất là gốc cây,
sinh ra và lớn đều phụ thuộc vào thế giới
xung quanh, về thiên nhiên, vì vậy mà nàng cũng chỉ có Bảo Ngọc, dẫn đến một
cái chết đau đớ cho nàng –một cô gái- một gốc cây.
2.3.Món nợ: nước Cam lộ - nước mắt với
Giả Bảo Ngọc
Mở đầu tiểu
thuyết, Tào Tuyết Cần đã dựng lên câu chuyện "vay-trả nghiệp chướng"
của "bọn phong lưu đa tình". Mà trước hết là câu chuyện của Thần Anh
và Giáng Châu. Thần Anh ngày ngày múc nước sông tưới cho cây khỏi chết héo. Cái
cây-chính là linh hồn của một người con gái - sau đã xin nguyện "lấy hết
nước mắt của đời ta ra để trả ơn tưới tắm" cho vị cứu tinh. Tiên Ảo cảnh
đã tra sổ ân oán và cho chúng xuống trần để trả nợ cho nhau. Thần Anh về sau đầu
thai vào họ Giả chính là Giả Bảo Ngọc. Cây cam lộ hóa ra người con gái đẹp đầu
thai vào nhà họ Lâm, chính là Lâm Đại Ngọc. Cùng xuống trần gian còn có một
"bọn phong lưu đa tình" "sẵn nợ gió trăng" khác nữa, chính
là những người con gái trong nhà họ Giả và thân hữu mà vận mệnh mỗi người được ấn
định trước tùy theo những nghiệp chướng họ đã tạo ra trong tiền kiếp.
Đôi lông mày
điểm màu khói lạt, dường như cau mà lại không cau; đôi con mắt chứa chan tình tứ,
dáng như vui mà lại không vui. Má hơi lúm, có vẻ âu sầu; Người hơi mệt trông
càng tha thướt. Lệ rớm rưng rưng, hơi ra nhè nhẹ. Vẻ thư nhàn, hoa rọi mặt hồ;
dáng đi đứng, liễu nghiêng trước gió. Tim đọ Tỉ Can hơn một trăm khiếu, bệnh so
Tây Tử trội vài phân” - Đó chính là nàng
Lâm Đại Ngọc của Tào Tuyết Cần. Một trong những tuyệt mỹ giai nhân với tâm hồn
đa cảm đa sầu nhất trong thiên hạ.
Tài nữ đa
truân sinh chẳng phùng thời.
Lâm Đại Ngọc
lung linh như ánh trăng rằm. Gương mặt mỹ miều phảng phất nét u buồn diễm lệ,
nét diễm kều thơ ngây như nụ hoa vừa chớm, cái nhìn u buồn như giọt sương sớm
luôn ủ mình trong lá non. Đôi lông mày lá liễu, miệng chúm chím như hoa đào, mắt
to tròn long lanh tựa nước hồ thu, ánh nhìn vừa buồn vừa xót xa. Tất cả sự
thanh tú ngưng đọng trên gương mặt nàng càng làm tăng thêm sự u buồn tĩnh lặng
nhưng lại vô cùng lôi cuốn.
Lâm Đại Ngọc
ra đời trong một xã hội phong kiến nhức nhối thói dâm dật, lọc lừa giả dối, con
người sống phải hùa theo thời, phải hướng đến chuẩn chung của chế độ phong kiến,
thế nên, đang độ tuổi xuân, tràn đầy mơ ước, khát vọng yêu đương mãnh liệt, lại
tinh thông thơ ca thi phú cầm kỳ thi họa, sâu sắc hơn người nên Đại Ngọc nhanh
chóng rơi vào bi kịch của nước mắt.
Năm Đại Ngọc
lên năm thì mẹ mất, nàng được Giả mẫu đón về kinh để chăm sóc. Vừa gặp Đại Ngọc,
Giả Bảo Ngọc đã cảm thấy quyến luyến không rời. Từ ngày về phủ của Giả mẫu, cuộc
sống của Đại Ngọc bắt đầu chuyển sang chương mới. Tuy được Giả mẫu yêu chiều, sống
trong phủ xa hoa lộng lẫy nhưng với Đại Ngọc, đó chẳng qua cũng chỉ là “ăn nhờ ở
đậu”. Đến năm 14 tuổi thì cha nàng là Lâm Như Hải cũng qua đời, Đại Ngọc từ đó
thành trẻ mồ côi nương tựa nhà người. Tâm thế của nàng vì thế càng tự ti, hay
nghĩ ngợi và u sầu.
Có lẽ, mệnh
bạc của nàng đã được dự báo từ đây. Vốn ốm yếu bẩm sinh, lại không người thân
bên cạnh, Đại Ngọc luôn rơi vào tâm trạng u uẩn, triền miên trong nghĩ ngợi suy
tư, thêm vào đó tâm hồn vô cùng nhạy cảm, chuyện gì cũng nghĩ sâu sắc hơn người,
dần dà bệnh lại càng thêm bệnh, thân thể lẫn tâm hồn đều yếu đuối như giọt
sương mai.
Nàng và Bảo
Ngọc cùng lớn lên bên nhau, tình cảm ngày càng khắng khít sáng trong như một
đôi ngọc quý. Với nàng, Bảo Ngọc vừa là anh, vừa là tình yêu đầu, vừa là bạn
tri kỷ, cùng trải qua những thời khắc đẹp nhất của tuổi hoa niên. Nàng chỉ muốn
Bảo Ngọc cứ thế mà sống, mà vui vẻ không sa chân vào chốn thị phi đầy rẫy dối
trá, bạc nhược xấu xa của quan lộ. Chính vì điều này làm Bảo Ngọc càng yêu
thương gần gũi nàng hơn. Và cũng chính vì thế, trong cái nhìn của nhà họ Giả, Đại
Ngọc trở thành bức tường cản trở công danh sự nghiệp của Bảo Ngọc.
Nàng Lâm Đại Ngọc dành cho Giả Bảo Ngọc một tình cảm
vô cùng sâu đậm. Tình yêu thậm chí đã khiến thần trí nàng mê loạn. Chỉ cần Giả
Bảo Ngọc tỏ ra thân mật, có chút tình nghĩa với người con gái khác, Lâm Đại Ngọc
liền ôm nỗi sầu muộn trong lòng mà thút thít khóc than. Khóc hết nước mắt cho mối tình duy nhất của đời
mình, và không hề sợ cái chết, Lâm Đại Ngọc muốn làm một cánh hoa mạnh mẽ lưu lại
hương của mình trong trái tim người yêu. Tình yêu đó, Giả Bảo Ngọc sẽ không bao
giờ có thể tìm thấy được lần nữa ở nhân gian.
Rất nhiều
người nói Lâm Đại Ngọc quá yếu đuối, vì đã khóc cho hoa, vì đã thả những giọt
nước mắt trôi theo dòng nước, vì đã quá luỵ tình đến nỗi thiệt thân.
Bản thân tôi
thì thấy Đại Ngọc không yếu đuối mà là quá nhạy cảm. Không yếu đuối là vì Đại
Ngọc đã dám sống theo cách của mình, mà không chịu bất kỳ một sự ảnh hưởng và uốn
nắn nào, đó là cách trả lời can đảm nhất dành cho câu hỏi: Sao cô không chịu
làm giống bao người khác để được "bình thường", và để được yên thân?
Tại sao phải khổ sở chịu những lời dè bỉu của người khác? Nhưng Đại Ngọc đâu có
khổ sổ khi chịu những lời dè bỉu, vì mỗi lần như vậy, cô đều tự động tránh mặt
đi, và không muốn tiếp xúc với họ. Đó là sự can đảm, và khi ta chọn được một
cách sống cho mình, thì không thể nói là yếu đuối.
Nhưng Đại Ngọc
lại nhạy cảm. Và sự nhạy cảm đó làm mọi thứ trở nên trong suốt và dễ vỡ như những
bọt xà phòng thổi bay trong gió. Đại Ngọc nhạy cảm với sự vô thường và tàn phai
của đời sống, cho nên cô thương hoa, tiếc hoa và khóc cho hoa. Một cánh hoa, cũng
giống như một cánh bướm, chỉ có thể mở mắt nhìn trời cao một lần rồi sẽ vĩnh viễn
bị quên lãng. Dù biết là quy luật luân hoàn, nhưng sự nhạy cảm luôn khiến Đại
Ngọc phải chảy nước mắt vì biết rằng quy luật này không là ngoại lệ với bất kỳ
điều gì từ đá núi cũng sẽ là san phẳng thành cánh đồng cát khô. Lâm Đại Ngọc luỵ
tình vì cô tin tưởng quá nhiều vào một tình yêu mạnh hơn quy luật này, nhưng rốt
cuộc nếu không thể có cái gọi là tình yêu và can đảm thật sự từ người cô yêu,
thì cô vẫn sẽ không chọn cách sống vật vờ quãng đời còn lại.
Nhắc tới
nàng, hậu thế vẫn luôn ấn tượng với hình ảnh kinh điển: “Đại Ngọc chôn hoa”. Đó
là hình ảnh đầy thi vị, khắc họa chân dung một tuyệt sắc giai nhân mang tâm hồn
đa sầu đa cảm, mong manh như giọt pha lê dễ vỡ.
Thậm chí tiếng
khóc của nàng còn được mô tả là quá xót xa, bi thương, đến nỗi chim chóc vốn
làm tổ trên cây gần đấy cũng thấy quặn lòng mà nối đuôi nhau cất cánh bay đi.
Vì tích ấy mà có những vần thơ chan chứa nỗi niềm:
Tần nhi tài
mạo thế ứng hy,
Độc bão u
phương xuất tú khuê,
Minh yết nhất
thanh do vị tận,
Lạc hoa mãn
địa điểu kinh phi.
Tạm dịch:
Sắc đẹp nàng
kia thật hiếm hoi,
Đơn độc, lẻ
loi chốn khuê phòng,
Tiếng ai
thút thít nghe thê thảm,
Hoa rơi đầy
đất, chim sợ bay.
Lâm Đại Ngọc
tuy chỉ thút thít nhỏ lệ mà đã khiến hoa rơi rụng đầy sân, chim chóc thất kinh
bay loạn xạ. Xem ra, uy lực của tiếng khóc ấy chẳng phải tầm thường. Huống hồ,
nàng còn vì Giả Bảo Ngọc mà nhỏ lệ trọn kiếp, rồi qua đời vì tâm tư héo hon, sầu
thảm.
Cuộc đời ngắn
tựa Thủy Phù Dung.
Đại Ngọc ấp ôm tư tưởng tự do dân chủ, lúc
nào cũng muốn khẳng định cái tôi cá nhân của mình, lúc nào cũng sống hết lòng
vì tình yêu tự do. Đại Ngọc dám thẳng thắn phản kháng những lề thói phong kiến
đã lỗi thời và lạc hậu bằng một cái tôi tự do dân chủ. Nàng dám nghĩ, dám làm,
tính cách quyết liệt, kiêu kì, cô độc chẳng bao giờ chịu hoà nhập vào những
thói giả dối xấu xa của những kẻ thống trị. Thế nhưng cuối cùng, Đại Ngọc vẫn
không thoát khỏi một kết cục bi thương. Xã hội phong kiến hàng ngàn năm vững bền
ấy đã giày vò, đày đoạ nàng không thôi, Đại Ngọc với tư tưởng tự do dân chủ của
mình đã phải sống một cuộc sống đầy nước mắt và chết một cái chết thật thương
tâm. Đại Ngọc suốt cuộc đời thanh khiết và cao ngạo, không bao giờ chấp nhận ai
coi thường mình. Đại Ngọc đã đấu tranh cho tình yêu của mình được sống. Cuối
cùng nàng lìa đời trong sự giằng xé thảm thương của tâm hồn nơi quán Tiêu Tương
buồn u ám. Đại Ngọc đã ôm mối hận tình một mình và chết đi âm thầm trong khi
các bậc bề trên của gia đình họ Giả đang náo nức chuẩn bị lễ cưới cho Bảo Ngọc và Bảo Thoa. Giai cấp thống trị
phong kiến không chấp nhận một người mang tư tưởng tự do như nàng, họ càng
không để tâm đến mối tình si tha thiết trong tim nàng. Lúc Đại Ngọc tắt thở là
giờ ăn cưới của Bảo Thoa, quán Tiêu Tương cách quá xa phòng tân hôn nên chẳng
ai nghe thấy tiếng khóc thê lương đưa tiễn một
linh hồn nhỏ bé, tội nghiệp. Ngoài trời chỉ có gió lay cành trúc, trăng
xế đầu tường, cảnh tượng thê lương ảm đạm.
3. Sự tương đồng giữa "Thái hư ảo cảnh" và "phủ
Quốc vinh"
Đọc qua tác phẩm ta có thể thấy điểm giông nhau giữa “thái hư ảo cảnh”
và “phủ Quốc vinh”:
Thứ nhất về
khung cảnh “ thái hư ảo cảnh”: là nơi có khung cảnh
tuyệt đẹp, lỗng lẫy, một nơi đẹp như thiên đường, “thái hư ảo cảnh” là mộng
trong mộng, là hư huyền của hư huyền.
Một đoạn trong hồi 5 kể chuyện Bảo Ngọc
nằm mơ thấy mình theo chân Tần Khả Khanh đến một chỗ nọ. Chỉ thấy đá trắng, lan
can đỏ, cây xanh, suối trong, quả là nơi không dấu vết con người, chốn bụi trần không đến.
Bảo Ngọc trong mơ hết sức vui vẻ, nghĩ chỗ này thú thật. Ta hẵng sống một đời
nơi đây, cho dù có mất đi gia đình cũng được”.Chỗ đó kì thực chính là Đại
quan viên về sau. Làm thế nào để chứng minh được điều này? Về cảnh mà nói, hồi
17 kể chuyện Bảo Ngọc theo Giả Chính vào Đại Quan Viên. Đi đến chỗ đình Thấm
Phương, tả cảnh vẫn là mấy chữ “đá trắng, lan can đỏ, cây xanh, suối trong”
(nguyên văn tám chữ “chu lan bạch thạch, lục thụ thanh khê”).
Hồi 5 kể chuyện Bảo Ngọc mơ dạo chơi Thái Hư ảo cảnh
“theo tiên cô đi đến một nơi có toà cổng đá chắn ngang, trên đề bốn chữ Thái
Hư ảo cảnh.” Chỗ mà Bảo Ngọc tìm kiếm trong kí ức há chẳng phải là nơi này.
“Phủ quốc vinh”: có
dòng suối từ góc tường phía bắc chảy qua, nay cũng chẳng phải lo chuyện khơi
dẫn lại. Cây cối núi non tuy cũng chưa được đủ, nhưng được cái chỗ ở của Giả Xá
là vườn cũ của phủ Vinh, nên đá cảnh cây cỏ tre trúc cho đến đình tạ lan can… đều
có thể dời đến đây được cả.”
là một nơi “Khoảng đất tính từ phía đông nối
liền với hoa viên phủ Đông kéo qua phía bắc dài độ ba dặm rưỡi”
Thứ hai về
nhân vật: trong “ thái hư ảo cảnh” Đại Quan Viên là cõi thái hư ảo cảnh của
chàng Bảo Ngọc và 12 cô thanh nữ, chữ “ảo” trong “ảo cảnh” thực ra chính là chữ
“ảo” và chính là nói Đại Quan Viên chính là ảnh xạ nhân gian của Thái Hư ảo cảnh.
Đối với Bảo Ngọc và đám thanh thiếu nữ
quanh chàng, thế giới bên ngoài Đại quan viên coi như không tồn tại, nếu là có
thì cũng chỉ có nghĩa tiêu cực mà thôi. Bởi vì bên ngoài Đại quan viên là bẩn
thỉu và đoạ lạc. Thậm chí, độc giả nói chung cũng thường bị thu hút bởi cái thế
giới lí tưởng Đại quan viên nên không tránh khỏi việc xem thường thế giới hiện
thực bên ngoài. Thế nhưng Tào Tuyết Cần cũng quan tâm không kém đến thế giới hiện
thực nhơ nhuốc và đoạ lạc. Khắc hoạ của nhà tiểu thuyết đối với thế giới hiện
thực cũng tường tận và công phu không kém. Tại đây có thể thấy giữa tác giả,
nhân vật chính và độc giả tồn tại những quan điểm không giống nhau.
Tào Tuyết Cần sáng tạo nên một khoảng
tịnh thổ trong mộng tưởng, nhưng ông cũng ý thức sâu sắc rằng mảnh đất đó thực
ra không thể vô quan hệ với thế giới hiện thực. Không những không thể thoát khỏi
những quan hệ chung, trên thực tế hai thế giới đó mắc mớ mãi mãi với nhau. Bất
kì một dự tính tách biệt hoàn toàn và tìm hiểu một cách cô lập, cắt rời hai thế
giới đó đều không giúp ta nắm được tính hoàn chỉnh nội tại của Hồng lâu mộng.
Để làm rõ điều này ta hãy kiểm điểm lại một chút cơ sở hiện thực của Đại quan
viên.
Còn nhân vật “Phủ Quốc Vinh” :cũng là ở của các nhân vật, một
phủ tập trung nhiều nơi ở, bao la rộng lớn, đủ mọi từng lớp loại con người khác
nhau.
Tuy nhiên ngoài sự tương đồng thì giữa “thái
hư ảo cảnh” và phủ Quốc vinh cũng có những điểm khác nhau.
“ Thái hư ảo cảnh” tuy đẹp nhưng không có thực,
chỉ là những cảnh hư, chỉ có trong mơ, khi con người thoát khỏi ảo giác, hay giấc
mơ trở về với hiện tại thì không còn cảnh đẹp, thế giới mộng mơ trước mắt nữa
mà là thế giới thực. Phải chăng vì sống quá đau khổ con người thường tưởng tượng
và mơ mộng đến một thế giới lạc tiên, khi xưa khi còn ở tiên giới..
Nhưng khi trong phủ quốc vinh mọi việc mọi cảnh lại trở
nên thực, rõ ràng, con người không thể mơ mộng, mọi chuyện đều mắt thấy tai
nghe, đều trải qua, vượt qua và chứng kiến tất cả và không như một giấc mơ,
không dễ gì thay đổi được hoàn cảnh, vì vậy mà nhân vật Lâm Đại Ngọc trong Hồng
Lâu Mộng thường thất vọng trước thực tại đâu đớn, nghiệt ngã.
Như vậy chúng ta có thể thấy con người không thể chìm đắm
trong thế giới “thái hư ảo cảnh” được mà trở về với hiện thực và chấp nhận nó.
Nhưng dù sao nhân vật cũng được phần nào thỏa sức hòa cùng thế giới mộng mơ, hư
thực trong thế giới mà họ mong muốn.
III.
Ý NGHĨA CỦA HUYỀN THOẠI" MỘC THẠCH TIỀN MINH” TRONG SUỐT TÁC PHẨM" HỒNG
LÂU MỘNG"
Hồng Lâu Mộng là một bức tranh hiện thực
về xa hội phong kiến Trung Quốc trên con đường suy tàn. Cái vẻ ngoài tôn nghiêm
nề nếp không che đậy được mọt rỗng của xã hội thượng lưu sống trong Giả phủ. Cuộc sống
xa hoa dâm ô của giai cấp bóc lột và những mối quan hệ tàn nhẫn của họ với nhau
đưa ra giả phủ và con đường tàn tạ không cứu vãn được đó chính là hình ảnh thu
nhỏ của xã hội đời Thanh. Cái cảm giác “cây đổ vượt tan”, “chim mỏi về rừng” đã
chi phối ngòi bút của Tào Tuyết Cần, chứng tỏ ông là nhà văn hiện thực báo hiệu
tuổi phong kiến của chế độ phong kiến. Huyền thoại “mộc thạch tiền minh” đã
đánh giấu cột mốc trong truyện, tạo sức hấp dẫn , lôi cuốn người đọc, để lại mối
tình tay ba –thực chất là cũng không hẳn
là tấn tuồng của mối tình tay ba mà là kịch tình yêu dưới chế độ phong kiến. Với
nhãn quan của một dân chủ nhà văn đã nhìn thấy con người mới mang tư tưởng phản
truyền thống: Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc chính là những đứa con “bất hiếu” gia
đình mình, họ chống đối quan niệm trọng nam khinh nữ truyền thống,chán ghét
khoa cử công danh,theo đuổi một cuộc sống tự do, chống lại khuôn phép ràng buộc.
Họ yêu nhau vì phản nghịch, càng phản nghịch họ càng yêu nhau. Đó chính là hồi
âm của cuộc đấu tranh cái mới chống lại cái cũ,giữa tư tưởng dân chủ sơ khai và
tư tưởng phong kiến. Như vậy, tiểu thuyết Hồng lâu mộng đã sử dụng hình thức
truyền kỳ và tư tưởng duy tâm, định mệnh. Vì Hồng lâu mộng có kết cấu giống như
một giấc mộng lớn, ngoài ra trong tác phẩm còn đến vài chục giấc mộng lớn nhỏ
khác nhau, trong đó đáng chú ý nhất là giấc mộng của Giả Bảo Ngọc ở hồi thứ 5
(chàng đến Thái hư cảnh ảo, được xem Thập nhị kim thoa chính sách, phó sách, hựu
phó sách ghi rõ số mệnh của những người đẹp thành Kim Lăng…). Hơn nữa ta thấy mở
đầu tác phẩm là câu chuyện hoang đường về hòn đá và cây Giáng Châu như một cái
án phong lưu “Chỉ vì trên bờ sông Linh hà ở Tây Phương, bên cạnh hòn đá Tam
sinh có một cây Giáng Châu được Thần Anh làm chức chầu chực ở cung Xích hà ngày
ngày lấy nước cam lộ tưới bón cho nó mới tươi tốt sống lâu. Đã hấp thu tinh hoa
của trời đất lại được nước cam lộ chăm bón, cây Giáng Châu thoát được hình cây,
hoá thành hình người con gái, suốt ngày rong chơi ngoài cõi Ly hận đói thì ăn
quả Mật thanh khát thì uống nước bể Quán sầu. Chỉ vì chưa trả được ơn bón tưới
cho nên trong lòng nó vẫn mắc víu, khi nào cũng cảm thấy như còn vương vấn một
mối tình gì đây. Gần đây, Thần Anh bị lửa trần rực cháy trong lòng, nhân gặp đời
thái bình thịnh vượng muốn xuống cõi trần để qua kiếp ảo duyên, nên đến trước mặt
vị tiên Cảnh Ảo ghi sổ, Cảnh Ảo liền hỏi đến mối tình bón tưới, biết chưa trả
xong, muốn nhân đó để kết liễu câu chuyện. Nàng Giáng Châu nói: Chàng ra ơn mưa
móc mà ta không có nước để trả lại.
Chàng đã xuống trần làm người, ta cũng phải đi theo. Ta lấy hết nước mắt của đời
ta để trả lại cho chàng, như thế mới trang trải xong!. Từ đó dẫn đến câu chuyện
tình duyên đầy nước mắt rồi lại chấm dứt như sự trả nợ một kiếp phong trần. Gạt
ra ngoài tư tưởng duy tâm định mệnh thì đây cũng chỉ là một biện pháp kết cấu
được ưa chuộng ở Trung Quốc nói riêng và Phương Đông nói chung.
Thật ra, mộng ảo trong Hồng lâu mộng chỉ
là sự hiện thực hoá cõi tâm linh con người. Những yếu tố hoang đường tạo nên
cái khung của bức tranh xã hội Trung Quốc thế kỉ XVIII, là vật cống của tác giả
cho những đòi hỏi của thời đại mình. Những chuyện hoang đường không có gì là thần
bí, nó đem lại cho chúng ta bí quyết để hiểu cái vũ trụ quan vốn có của người
Trung Quốc thế kỉ XVIII.
Như vậy, có thể thấy việc sử dụng hình thức
truyền kì và tư tưởng duy tâm định mệnh trong Hồng lâu mộng chỉ là phương tiện
chứ không phải là cứu cánh. Có nghĩa là tác giả đã sử dụng hình thức truyền kì,
tư tưởng định mệnh duy tâm như một phương tiện nghệ thuật chứ không phải muốn
tuyên truyền cho tư tưởng duy tâm, định mệnh thần kì ấy. Vì vậy, bản thân Hồng
lâu mộng vẫn được đánh giá là một tiểu thuyết hiện thực xuất sắc và được xếp
vào đỉnh cao của tiểu thuyết Minh-Thanh.
IV. KẾT LUẬN
Hồng
Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần phá vỡ cách viết truyền thống của tiểu thuyết, mở ra
một thi pháp mới của tiểu thuyết. Nếu như trước đây, nhà
văn phải dựa vào những câu chuyện éo le, li kỳ hoặc căng thẳng rùng rợn để tạo
sự cuốn hút thì với Hồng Lâu Mộng, Tào Tuyết Cần đã thoát khỏi sự trói buộc của
truyền thống ấy. Trong Hồng Lâu Mộng, cuộc sống luôn hiện ra chủ yếu là cuộc sống
thường nhật. Chính trong cái cuộc sống thường nhật đó, mâu thuẫn xung đột đang
phát triển, câu chuyện đang diễn biến, tính cách nhân vật đang rõ nét dần.
Trong Hồng Lâu Mộng cũng có cả những sự kiện, những cơn sóng to gió lớn, đó là
kết quả phát triển tự nhiên của cuộc sống hàng ngày, là biểu hiện tập trung của
mâu thuẫn và ý nghĩa cuộc sống. Tào Tuyết Cần không chỉ sành sỏi khi miêu tả rất
tinh tế, rất giống cuộc sống hàng ngày, mà ông còn có tài dùng ngòi bút thiên
biến vạn hóa miêu tả say sưa, sinh động những sự việc lớn, những cơn sóng to
gió lớn. Như đoạn Giả Bảo Ngọc bị đòn, đoạn lục soát vườn Đại quan, đều là những
đoạn viết rất hay, kế thừa xuất sắc truyền thống tốt đẹp của tiểu thuyết cổ điển
đồng thời lại vượt hơn hẳn bất cứ tác phẩm nào trước đó. Đó là sự điêu luyện, tự
nhiên và giàu sức biểu hiện. Trong đó, ngôn ngữ nhân vật chiếm phần lớn. Rất
nhiều đoạn hầu hết là đối thoại của nhân vật, tác giả chỉ miêu tả hoặc thuật
chuyện hết sức gọn ghẽ để nối lại với nhau. Ở đây, ngôn ngữ nhân vật rất đa dạng,
phong phú, luôn thay đổi. Những lời lẽ đó, dài hoặc ngắn, thanh hoặc thô, đều hợp
với từng nhân vật. Tào Tuyết Cần đặc biệt giỏi dùng những lời đối thoại trong
cuộc sống hàng ngày, không cần tô vẽ thêm bớt gì cả, để cho nhân vật dẫn dắt
chúng ta đi vào thế giới nội tâm của họ và những chỗ sâu kín của cuộc đời. Bởi
vậy có thể nói, về mặt thể hiện ngôn ngữ, nhân vật, cùng với Thủy hử, Hồng
lâu mộng đã trở thành những tác phẩm mẫu mực trong tiểu thuyết cổ điển
Trung Quốc.
Hồng Lâu Mộng là một tuyệt tác,một tiểu
thuyết ái tình hay nhất mọi thời đại, là đỉnh cao của 1 trong bốn kiệt tác tứ đại
kì thư của Trung Quốc mà đến
ngày nay chúng ta cũng phải thán phục.