MỤC LỤC
1.
Giới thiệu chung
1.1.
Tác giả
1.1.1.
Thời đại
Thế kỉ XX là một thời kỳ đầy biến động với sự phát triển vượt bậc
về khoa học kỹ thuật và cũng là thời kỳ nở rộ của các thành tựu và sáng tạo. Chỉ
trong vòng vài chục năm, nó đã làm thay đổi bộ mặt của Âu Mỹ vốn đã tồn tại suốt
nhiều thế kỷ qua, đem lại sự giàu mạnh cho phương Tây tiên tiến, nhất là vể mặt xã hội. Bên cạnh đó, nền văn minh vật chất mới và sự tiến bộ của khoa học
kỹ thuật đã giúp con người phát hiện ra những bí mật của đời sống, của tự
nhiên, của vũ trụ. Xã hội Âu Mỹ nhanh chóng đi vào kỷ nguyên văn minh vật chất
và nhiều kỳ vọng về tương lai. Nhưng con người cũng đã sớm nhận ra rằng họ đã
hoàn toàn thất vọng, khi nền văn minh vật chất đã phản bội lại con người - kẻ
sáng tạo ra nó. Mặt khác nó trở thành chủ nhân của con người, biến con người
thành nô lệ của xã hội máy móc văn minh. Xã hội tiền tài vật chất chi phối và
quyết định cuộc sống cũng như hành động của con người. Ðối diện với sự hoài nghi về cái cũ lẫn cái mới, bầu không khí văn
hóa tinh thần của phương Tây đi vào khủng hoảng sâu sắc. Tất
cả những khủng hoảng đó đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong sắc thái đặc biệt
của nền văn học Âu Mỹ thời kỳ này. Ðứng trước hoàn cảnh đó đã xuất hiện nhiều
thái độ, phản ứng khác nhau của nhiều tầng lớp nhà văn. Từ đó đã dẫn đến việc
hình thành những khuynh hướng văn học trong các giai đoạn lịch sử khác nhau, từ
đầu thế kỷ cho đến sau hai cuộc thế chiến.
Những năm đầu thế kỉ XX, tình hình Tây Ban Nha
tương đối ổn định. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh nổ ra tại Morocco vào năm 1931 đã
làm suy giảm ảnh hưởng của Tây Ban Nha tại các thuộc địa này. Khoảng thời gian
cai trị độc tài của tướng Miguel
Primo de Rivera (1923-1931) kết thúc với việc nền cộng hòa thứ
hai được thành lập. Những thị trấn nhỏ trên đỉnh đồi bị vây hãm đến kiệt quệ, những
người lính trong lớp băng bó xù xì lục lọi các sườn núi để kiếm củi. Đất nước
Tây Ban Nha vào năm 1929 là nỗi thất vọng ê chề. Ở đó tràn ngập sự hỗn
loạn, vô chính phủ, bạo lực, và các cuộc bắt bớ chính trị. Năm 1936, Tây Ban Nha bị rơi vào cuộc nội chiến đẫm máu, cuộc chiến kết thúc
với sự hình thành của một nền độc tài dân tộc đứng đầu bởi Francisco Franco, chế độ của Francisco Franco đã kiểm soát
quốc gia này cho đến năm 1975. Ngày 21
tháng 3 năm 1939, Franco chiếm được thủ đô Madrid, chính phủ Cộng hòa bị lật đổ. Franco
thiết lập nền thống trị độc tài ở Tây Ban Nha và ông ta trở thành nguyên thủ
của đất nước này cho đến khi mất. Cuộc Nội chiến ở Tây Ban Nha được coi là trận
chiến mở màn cho Chiến
tranh thế giới thứ hai sau đó.
Dưới thời Franco, một nền thống trị độc tài được
thiết lập ở Tây Ban Nha. Chỉ có duy nhất một đảng của Franco là hợp pháp, còn
tất cả những đảng phái khác đều bị thủ tiêu. Nhiều nhân sĩ tiến bộ đã bị bắt
giam hoặc bị giết, nhiều người đã phải chạy sang châu Mỹ Latinh. Năm
1936, khi Tây Ban Nha xảy ra nội chiến, Lorca đã đứng về phía các đảng viên
đảng Cộng hòa chống phát xít. Mặc dù Lorca không trực tiếp tham gia chiến đấu,
các đảng viên Falang phát xít vẫn nghi ngờ Lorca vì ông bộc lộ những quan điểm
tự do. Những kẻ phát xít còn không ưa Lorca vì ông là một người đồng tính. Lorca bị sát hại vào ngày 19/8/1936.
Thế kỷ XX là thời kỳ châu Âu nổi lên những cuộc cách mạng nghệ thuật,
nhất là nghệ thuật văn chương, hội hoạ và tạo hình. Nhiều trường phái nghệ thuật
ra đời, và nổi bật là phái siêu thực. Federico Garcia Lorca không phải là thi
sĩ chính danh trong tộc siêu thực nhưng ông đã lớn lên trong thời kỳ phái siêu
thực ra đời và phát triển như một cơn lốc. Lorca lại giao thiệp với các nghệ sĩ
siêu thực như hoạ sĩ Salvador Dalí, tạo hình Emilio Soriano Aladrén... Vì vậy,
thơ siêu thực đã tìm đến ông như “một cơn sóng thời đại táp vào bờ thi ca”
[3,16].
1.1.2.
Quê hương
Federica Garcia Lorca sinh ra tại Fuente Vaqueros, một thị trấn nhỏ
cách Granada chừng vài dặm, thuộc Tây Ban Nha. Sau này gia đình Lorca chuyển đến
Granada và ông trải qua thời thơ ấu ở đây. Khi mất
thi thể ông được tìm thấy trong đống xác 15.000 người bị bắn ngày 19/8 trên miệng một vực sâu gần Granada. Granada
chính là cuộc đời ông, của sự nghiệp ông, nơi ông sinh ra, và cũng là nơi ông về
để nhận cái chết thảm khốc. Chình
vì vậy thành phố Granada của Tây Ban Nha đã phần nào ảnh hưởng đến thơ ông, trở
thành một nửa cuộc đời ông: "Nếu có ngày, nhờ Trời, tôi được vinh quang,
thì vinh quang ấy phân nửa thuộc về Granada, nơi đã tạc nặn nên cái tạo vật
tôi: thi sĩ bẩm sinh không thể cải hồi". Granada là một trong bốn thành phố lớn của xứ
Andalucía ở miền nam Tây Ban Nha, xứ sở của Carmen, của những điệu nhảy và bài
hát mê cuồng, của những hội đấu bò tót làm máu đập thành tiếng trên vạn đôi
môi, của những rặng ôliu ngăn ngắt, những vườn cam và hoa nhài ngát hương đêm
hè khiến "những người đang ngủ bỗng khát thèm từ bao lơn nhảy xuống".
Xứ sở đặc hữu sự giao hoà hai nền văn minh Đông – Tây: nơi đây đã từng là
"một trong những vương quốc đẹp nhất của châu Phi" mà người Ả rập xây
dựng nên, còn để lại bao dấu tích trong kiến trúc, trong nghệ thuật, trong hồn
người, để lại trong không gian một cái gì mơ hồ, xa xăm, huyền bí. Andalucía đã
cho Lorca giọng điệu đích thực để hát về nó. Lorca thường làm thơ về quê hương thời thơ ấu -
xứ Andalucía của mình: núi non, bầu trời, con người và cả bóng ma,... Lorca
không mô phỏng thế giới ấy mà sáng tạo thơ ngợi ca nó. Đáng ngạc nhiên những vần thơ ấy là một sự tổ thành tuyệt vời những yếu tố tinh thần của thời đại
và những nhân tố hình thức lớn của thơ ca truyền thống: “Với
hình thức thơ giàu nhạc tính, vừa rất dân gian, vừa mang tính chất cách tân mạnh
mẽ, Lorca đã thể hiện một cách nghệ thuật những nỗi đau khổ của người dân, đặc
biệt là ở vùng Andalucía đầy bi kịch” [4,64].
1.1.3.
Gia đình
Lorca sinh ra trong một gia đình có bốn người con. Cha ông là một
địa chủ, có đất đai quanh vùng Granada. Mẹ ông là một tài năng dương cầm, bà
thường dạy và trình diễn dương cầm. Lorca thừa hưởng ở cha tâm hồn gắn bó với đất
đai, thiên nhiên, ở mẹ trí thông minh và những năng khiếu nghệ thuật. Lorca trải
qua thời thơ ấu với đàn cừu, đồng ruộng, bầu trời mênh mông và sự cô tịch. Ông
chơi thành thạo và am hiểu sâu sắc về các nhạc cụ như guitar, dương cầm,...
Chính những điều đó đã ảnh hưởng đến các sáng tác văn thơ của Lorca. Nhiều tác
phẩm của ông đã vượt ra khỏi chủ nghĩa siêu thực, trở về với cội nguồn cảm hứng
của văn học dân gian, với truyền thống nhân đạo sâu sắc. Các tập thơ Cante Jondo (1921 – 1922), Ca khúc digan
(1924 - 1927) thể hiện rõ điều đó.
1.1.4.
Cuộc đời
Lorca sinh ngày 5 tháng 6 năm 1898 tại Fuente Vaqueros, một thị trấn
nhỏ cách thành phố Granada chừng vài dặm, thuộc Tây Ban Nha. Đến năm 1910, gia
đình ông dời vào thành phố Granada. Năm 1915, ông vào đại học Sacret Heart. Các
bộ môn theo học là văn chương, luật pháp, sáng tác và dương cầm. Năm 1918, ông
cho in cuốn sách đầu tay là Impresiones y
Paisajes (Nghệ thuật và ấn tượng).
Năm 1919, Lorca theo học chương trình Residencia de estudiantes tại
Madrid. Tại đây, ông quen biết với nhiều nghệ sĩ tên tuổi như Manuel de Falla,
Luis Bunuel và Savador Dalí. Vở kịch đầu tay của ông ra đời năm 1920, El maleficio de la mariposa (Yêu thuật của
bướm). Nghệ thuật kịch nghệ và sân khấu đeo đuổi ông cho đến cuối đời, mặc dù
ông nổi tiếng về thi ca. Năm 1920, tập thơ đầu Libro de Poemas (Tuyển tập thơ) xuất bản, tiếp theo là tập thơ Poema del Cante Jondo (Những làn điệu
Cante Hondo), kế tiếp là tập Suites
(Tổ khúc thơ) và Canciones (Ca khúc
thơ). Khoảng thời gian từ năm 1925 đến năm 1928, ông và họa sĩ siêu thực Salvador
Dalí trở thành bạn rất thân. Từ đó tiến đến tình đồng tính. Cho đến khi ông xuất
bản tập thơ Romancero Gitano (Tình ca
du mục) thì Dalí chê trách loại thơ trở về nguồn này, khiến cho tình cảm giữa
hai bên sứt mẻ. Và mối tình này chấm dứt khi ông và Dalí cùng một người bạn
Luis Bunuel dựng xong cuốn phim Un Chien
Andalou vào năm 1929. Sau đó, Dalí lấy vợ là cô Gala. Chuyện này đã gây cho
Lorca những nỗi buồn khổ và thất vọng.
Năm 1928, một tập thơ quan trọng của Lorca được xuất bản, Romancero Gitano (Tình ca du mục). Tập
thơ này đưa ông lên hàng đầu thi sĩ của Tây Ban Nha trong thời điểm đó. Và bài
thơ được yêu chuộng nhất trong tập thơ là bài Romance Sonambulo (Tình ca mộng du). Năm 1930, ông sang New York,
theo học Columbia University, và sáng tác tập thơ quan trọng Poeta en Nueva York (Thi sĩ trong thành
phố New York) trong thời điểm này. Vở kịch El
Público (Công chúng) cũng sáng
tác tại đây nhưng mãi đến 1970 mới ấn hành. Ông sống tại Huerta de San Vicente
vài ngày trước khi ông bị ám sát vào tháng tám năm 1936.
Lorca về lại Tây Ban Nha vào lúc chế độ độc tài của Primo de
Rivera sụp đổ và Cộng hoà Tây Ban Nha thành lập. Năm 1931, ông làm giám đốc của
Teatro Universitario la Barraca (Sân khấu Đại học La Barraca). Được sự tài trợ
của bộ giáo dục của tân chính phủ, đoàn nghệ sĩ của sân khấu này phải đi trình
diễn nhiều nơi và có mục tiêu giới thiệu những nghệ thuật mới. Thời gian này,
ông viết những vở kịch nổi tiếng như Bodas
de Sangre (Đám cưới đẫm máu), La cas
de Bernarda Alba (Căn nhà của Bernarda Alba)…
Ông rời bỏ Madrid để đi Granada ba ngày trước khi cuộc nội chiến
Tây Ban Nha bắt đầu. Tháng bảy năm 1936, ông bị bắt giữ bởi một nhóm quân phiệt
bảo thủ tại Andalucía. Ngày 18 tháng 8,
người anh rể của ông đang làm thị trưởng của Granada, thuộc đảng Xã hội, đã bị
bắn chết. Lorca bị bắt ngay trong chiều hôm đó. Theo như nhà văn Ian Gibson
trong tác phẩm The Assassination of
Garcia Lorca, Lorca bị tử hình cùng với ba người khác tại Fuente Grande, hoặc
là Fountain of Tears tại Arabic, trên con đường giữa Viznar và Alfacar. Tuy
nhiên vẫn còn rất nhiều nghi vấn về ngày chết cũng như nơi chết và chết như thế
nào.
1.1.5.
Sự nghiệp
Lorca là một trong những tài năng bột phát của văn học hiện đại
Tây Ban Nha. Từ bé, Lorca đã lộ rõ khả năng về thơ ca, hội hoạ, âm nhạc và sân
khấu.
Thơ ca: Nhà thơ cùng thời với Lorca, Horđê Ghiđên, trong bài viết Phêđêricô sống mãi đã giải thích vì sao
thơ Lorca ít khi được xuất bản ngay sau khi sáng tác: “Thơ trữ tình của Lorca,
mà phần lớn chưa được công bố, xuất bản năm 1921, tất cả chưa được công bố, trừ
tập thơ đầu tay. Vì sao vẫn còn chưa được xuất bản. Không phải vì thiếu những lời
mời xuất bản của nhà xuất bản. Nhưng Lorca thích công bố tác phẩm của mình bằng
cách ngâm đọc chúng trước công chúng (lại một đặc điểm nữa thuộc về bản thể tự
nhiên Andalucía của ông và cội nguồn dân
gian của thơ ông). Chỉ có những người bạn của ông và những người thân cận của bạn
ông mới biết tác phẩm này” [2,112].
Một số tập thơ của Lorca như:
Impresiones y paisajes (Ấn tượng và phong cảnh, 1918)
Libro de poemas (Tuyển tập thơ, 1918 - 1920)
Poema del cane jondo (Thơ về làn điệu Cante Hondo) được viết vào năm 1921, nhưng đến
năm 1931 mới được xuất bản.
Libro de poemas (Tuyển tập thơ, 1921)
Suites (Tổ khúc thơ, 1923)
Canciones (Ca khúc thơ, 1927)
Romancero gitano (Tình ca du mục, 1928)
Poeta en Nueva York (Thi sĩ trong thành phố New York) được viết vào năm 1930 nhưng phải
sau năm 1940 mới được xuất bản, bản dịch đầu tiên sang tiếng Anh là vào năm
1940 với tên gọi The Poet in New York.
Llanto por Ignacio Sánchez Mejías (Điếu ca cho Ignacio Sánchez Mejías, 1935)
Seis poemas gallegos (Sáu bài thơ của người Ga Li Ci, 1935)
Sonetos del amor oscuro (Những bài Sonnê về tình yêu tăm tối, 1936)
Lament for the Death of a
Bullfighter and Other Poems
(Than khóc cho cái chết của một dũng sĩ đấu bò và những bài thơ khác, 1937)
Primeras canciones (Những bài hát đầu tiên, 1936) Selected Poems (Những bài thơ được
chọn, 1941)
…
Kịch:
El maleficio de la mariposa (Yêu thuật của bướm) được viết vào khoảng năm 1919 đến năm 1920,
được sản xuất lần đầu tiên vào năm 1920.
Los títeres de Cachiporra (The Billy-Club Puppets, 1925 - 1927)
Mariana Pineda (1923 – 1925), được Dalí dàn dựng tại Barcelona vào năm 1927
La zapatera prodigiosa (Người vợ phi thường của người đóng giày, 1926 –1930) được chỉnh
sửa lại vào năm 1933
Amor de Don Perlimplín con Belisa
en su jardín (Tình yêu của
Don Perlimplín và Belisa và trong vườn của anh ấy, 1928)
El
público (Công chúng,
1929 – 1930)
Así que pasen cinco años (Khi 5 năm đã qua, 1931)
Bodas de sangre (Đám cưới đẫm máu, 1932)
Yerma (1934)
Doña Rosita
la soltera o el lenguaje de las flores (Doña
Rosita hay là tiếng nói của hoa, 1935)
La casa de Bernarda Alba (Ngôi nhà của Bernarda Alba, 1936)
Kịch ngắn:
El paseo de Buster Keaton (Buster Keaton goes for a stroll, 1928)
La doncella, el marinero y el
estudiante (The Maiden,
the Sailor and the Student 1928)
Quimera (1928)
Phim: Viaje a la luna (Trip
to the moon, 1929)
Tranh vẽ: Salvador
Dalí (1925) và Bust of a Deadman (1932),…
Ở Việt Nam, một số thơ của Lorca đã được Tế Hanh dịch, in trong tập
Thơ Tây Ban Nha, nhà xuất bản Văn học năm 1974.
1.1.6.
Phong cách sáng tác
Phong cách
trong sáng tác thơ ca của Lorca có thể nhìn xuyên qua ba giai đoạn:
1- Thời khởi đầu, kế thừa truyền thống thơ ca Tây Ban Nha
2- Ảnh hưởng bởi phái Tượng Trưng
3- Ảnh hưởng bởi phái Siêu Thực
Những tập thơ đầu, ông sử dụng nhiều thể thơ truyền thống Tây Ban
Nha hoặc những thể của các ca khúc dân tộc, có nhạc điệu, tiết tấu. Đó là những
tập thơ: Libro de poemas (Tuyển tập
thơ), Poema del cane jondo (Thơ về
làn điệu Cante Hondo), Suites (Tổ
khúc thơ), Canciones (Ca khúc thơ), Primer romancero gitano (Tình ca du mục
Gypsy), Diván del tamarit (Trường kỷ ở
Tamarit). Xen lẫn trong những tập thơ này là những bài thơ tự do, nhất là trong
những tập thơ về sau như: Poeta en Nueva
York (Thi sĩ trong Thành phố New York) và trường ca Llanto por Ignacio Sanchez Mejías (Điếu Ca cho Ignacio Sanchez
Mejías), ông sử dụng lối viết tự động, ngữ thuật của phái siêu thực và tự tạo
cho ông một thể cách riêng. Lorca
sử dụng nhiều phong tục, tập quán, cổ tích dân tộc và huyền thoại Hy Lạp, La Mã
trong thơ. Ông áp dụng tinh thần và kỹ thuật của phong trào tượng trưng. Giai
đoạn sau, Lorca sử dụng nghệ thuật sáng tác của phái siêu thực. Chủ yếu là những
hình tượng, tứ thơ mang bản chất và liên hệ phi lý, có gốc rễ từ những giấc mơ,
từ sâu thẳm của vô thức. Nhưng vào khoảng
năm 1930 - 1931 trở đi, thơ của Lorca đã chứng tỏ sự hòa nhập tinh thần và nghệ
thuật của cả ba ảnh hưởng kể trên.
Dịch giả Ngu Yên đã chỉ ra được một số đặc điểm trong văn phong của
Lorca: “Như những thi sĩ Âu Châu đương thời, ông cũng bị ảnh hưởng bởi tinh thần
và thể thơ ngắn của thơ Hài Cú, thơ Nhật và thơ Trung Hoa. Với tài năng thiên
phú ông đã hài hòa được những ưu điểm, cá tính của các phong trào thi ca và đặc
tính của dân tộc” [5,16]. Như
trong bài Flor, ông viết đóa hoa:
Dương liễu rũ lá sầu El magnifico sauce
dưới cơn mưa, tráng lệ de la lluvia, caía.
Kìa, trăng tròn Oh, la luna
redonda
trên cành sáng! sobre las ramas
blancas!
Basho (Ba Tiêu) cũng có bài thơ về hình ảnh trăng và hoa đầy ảo diệu
như vậy:
Cánh đồng bông gòn
vầng trăng
rớt hoa.
Tính nhân loại, tính địa phương, cá nhân và xã hội, những thứ đó đều
có mặt trong thơ ông. Thơ ông là nhạc, là hoạ, là kiến trúc.
Tất cả thơ ca của ông đều được xây dựng, cấu trúc một cách có hiểu biết và có
tính toán chính xác trong nhịp điệu.
Cũng như thơ, kịch của Lorca có bản chất siêu thực và ông đã sáng
tác với tinh thần sân khấu bỏ túi.
1.2.
Tác phẩm
1.2.1.
Hoàn cảnh sáng tác
Năm 1922, Lorca cùng với nhạc sĩ Manuel de Falla tổ chức hội Cante
Hondo ở Alhambra (nơi có cung điện Quốc vương Ảrập của Vương quốc Granada xưa).
Chính những giai điệu, lời ca… mà tác giả thu nhặt được trong hội thi này đã trở
thành nguồn cảm hứng để tác giả cho ra mắt tập Thơ về những làn điệu Cante Jondo. Tập thơ này được sáng tác trong khoảng hai năm 1921 – 1922, tuy
nhiên, đến năm 1931 nó mới được xuất bản. Bài thơ Cây đàn guitar được trích từ tập thơ này, trong phần Thơ của bài Siguiriya gitan.
1.2.2.
Chủ đề, thể thơ
Bài thơ ghi lại những cảm nhận về giai điệu của tiếng guitar
Flamenco trong các ca khúc dân ca trầm lắng Siguiriya ở Tây Ban Nha. Thông qua
hình tượng tiếng đàn, bài thơ còn nói lên thực trạng của một nền văn hóa truyền
thống đang có nguy cơ bị lãng quên, mất phương hướng trước sự xâm nhập của văn
hóa ngoại lai. Bên cạnh đó, bài thơ cũng bộc lộ niềm tin của tác giả về sức mạnh
không thể bị tiêu diệt của nền nghệ thuật truyền thống mà Lorca đang theo đuổi.
Bài thơ được sáng tác theo thể thơ tự do với phong cách tượng
trưng, siêu thực. Mạch thơ là dòng cảm xúc tuôn tràn của chính bản thân tác giả
khiến cho bài thơ trở nên liền mạch.
2.
Phân tích
2.1.
Văn hóa Tây Ban Nha
trong bài Cây đàn Guitar
Văn hoá Tây Ban Nha chịu sự ảnh hưởng của rất
nhiều nền văn hóa trong lịch sử, nhưng chủ yếu là chịu ảnh hưởng của La Mã. Do từng có hệ thống thuộc địa rộng lớn vào thế kỷ XVI nên những ảnh hưởng
văn hóa của Tây Ban Nha đã trải rộng trên khắp thế giới, từ vùng Địa Trung Hải
cho đến tất cả thuộc địa cũ của nước này. Ngày nay, Tây Ban Nha nổi tiếng với lễ
hội đấu bò tót, được biết đến như đất nước sản sinh ra vũ điệu flamenco và cây
đàn.
Cây đàn guitar bản thân nó đã là huyền thoại,
với một lịch sử ra đời và phát triển lâu dài. Từ "ghita" (guitar) bắt nguồn từ chữ cithara. Cây đàn guitar đầu tiên có
lẽ xuất hiện ở Ai Cập và Babylon từ 1000 năm trước Công nguyên. Trải
qua nhiều biến đổi, nó được những đạo quân xâm lược mang đến châu Âu khoảng
thế kỷ thứ VIII và phát triển rực rỡ vào thế
kỷ XIV, đặc biệt tại Tây Ban Nha.
Ai đã từng
nghe truyền thuyết về tiếng đàn guitar vốn xuất phát từ cô gái người Tây Ban
Nha tên là Citra thì không khỏi xúc động. Người con gái từng dùng tiếng hát
tuyệt vời của mình để cứu sống biết bao con người bệnh tật thể xác lẫn tinh
thần. Sự xuất hiện của cây đàn là do sau một lần đi cứu người nơi xa, gặp tai
nạn trong tuyết mà cô mất đi giọng hát của mình. Người cha trước sự đau đớn,
buồn khổ của con mà đã tặng con một món quà có hình dáng như người phụ nữ làm
bằng gỗ, có dây gân nai. Đồ chơi đó có thể phát ra tiếng, và Citra đã hòa tấu
chúng thành những bản nhạc tuyệt vời. Từ đó cô lại dùng tiếng đàn để cứu giúp
bao người khác nữa…
Ngoài ra, nền
văn hoá Tây Ban Nha cũng nổi bật trên thế giới về các lĩnh vực ngôn ngữ, văn học, âm nhạc, hội họa, kiến trúc và lễ hội, thể thao, ẩm
thực. Đặc biệt là văn
học với các nhà văn, nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà soạn kịch nổi tiếng như
Miguel de Cervantes, Rafael Alberti, Gustavo Adolfo Bécquer, Federico Gacía
Lorca…và nhiều nhà văn được giải Nobel Văn học như José Echegaray (1904), Jacinto
Benavente y Martinez (1922), Vicente Adreixandre (1977), Camilo José Cela
(1989),… Văn học Tây Ban Nha chịu sự ảnh hưởng nặng nề của các tác giả Hy Lạp cổ
đại. Một số tác phẩm thời kỳ Đế quốc La Mã thể hiện bằng các thiên anh hùng ca
về chiến thắng vĩ đại của Đế chế. Dưới thời nền Cộng hòa mở rộng, bắt đầu xuất
hiện các thể loại như, thi ca, kịch nói, sử học và bi kịch.
Dọc theo dòng thơ của Lorca, người đọc dễ nhận ra sự ảnh hưởng của
thiên nhiên trong thơ của ông. Ông sinh ra và lớn lên trong miền quê Andalusia. Cả một thời niên thiếu, ông đã chạy nhảy tung tăng với ruộng đồng,
trâu bò, gia súc. Ông lớn lên với phong tục tập quán dân quê. Thơ ông chứa đầy
những phong cảnh thiên nhiên và sinh hoạt nông thôn cho dù đa số chỉ để tượng
trưng cho những gì ẩn náu bên trong. Đôi lúc, nếu không biết những phong thói
này, khó mà theo dõi thơ của ông.
Là một người yêu âm nhạc và nhạc dân tộc, ông đã mang những thể
hát và tinh thần ca khúc vào trong thơ. Lorca làm rất nhiều bài thơ, ngắn có
dài có, trong các thể điệu nhạc dân tộc. Một trong số đó có tập Thơ trầm ca hay Thơ của những
bài ca sâu thẳm, còn có người gọi đó là Thơ về những làn điệu Cante Hondo mà đúng nguyên tác là Poema del Cante jondo. Từ “Cante hondo” (hay
“Cante jondo” như người gitan thường nói), theo định nghĩa
của chính F. G. Lorca (1922), là “một ca khúc hoàn toàn Andalucía, đã có trong
'căn nguyên mầm mống' ở vùng này, trước khi người gitan tới đây”. Từ “hondo”
có nghĩa là sâu, thật sâu, sâu hơn nhiều so với tất cả các giếng sâu và mọi
vùng biển bao quanh thế giới, sâu hơn nhiều so với con tim hiện tại tạo ra nó,
là vì nó hầu như vô tận. Trong ca
khúc Cante Hondo có rất nhiều thể dạng chủ yếu như: Seguiriya,
Solea, Saeta, Petenera… Ở tập Thơ về những làn điệu Cante Hondo, ông đã
nhân cách hóa những thể dạng này hoặc diễn tả chúng trong thế giới thích hợp với
từng thể, thế giới ấy có những nhân vật và phong cách khác nhau. Một số bài
tiêu biểu như: Bước chân của Siguiriya,
Làng, Lưỡi dao găm… và Cây đàn
guitar. Để làm rõ hơn sự ảnh hưởng của ca khúc dân ca trong Cây đàn guitar, ta sẽ xem xét tính chất
của bài Sigiuriya - một trong những bài dân ca với “mô
thức nguyên thủy và hoàn hảo”, là nơi
xuất phát của những bài ca khác còn được nhân dân duy trì. Bài Siguiriya gitana theo Norman C. Miller
trong Garcia Lorca’s ‘Poema del cante jondo’ (1978) bắt đầu với tiếng
guitar để hình thành điệu cho bài hát. Khúc dạo đầu được gọi là temple. Tiếp
theo khúc dạo là tiếng la (gọi là quejío hay grito) của người hát.
Kế tiếp quejío thường là một khoảng lặng rồi đến hai đoạn nhạc (coplas). Những đoạn
nhạc được hát với thang âm cao dần và có thể dừng ở bất kỳ lúc nào bằng những từ
cảm thán (¡ay!)… Một bài Siguiriya kết thúc trong giọng hát chìm dần của người
ca sĩ theo tiếng đệm của đàn guitar. Miller cũng chỉ ra rằng lời bài hát của
Siguiriya đặc biệt nổi tiếng là bi kịch, bởi vì Siguiriya là một bài hát của sự
tuyệt vọng, đau khổ… Lorca gọi bài Sigiuriya là “bài thơ hoàn hảo của nước mắt”
có lẽ xuất phát từ giai điệu, lời ca sầu thương của nó. Chịu sự ảnh hưởng đó,
thứ nhất, không khí trong Cây đàn guitar mang vẻ sầu não, lời thơ nhìn
chung phảng phất nỗi buồn; thứ hai, cấu trúc bài Cây đàn guitar dường
như tái hiện lại cấu trúc của bài Siguiriya: mở đầu cũng là temple, dừng
lại bằng từ cảm thán “¡Oh guitarra!” để rồi lắng đọng dư âm với tiếng đàn
guitar ngân mãi.
Người Gitan ở Tây
Ban Nha, cũng như người Digan ở Nga,
người Bohemien ở Tiệp,
Pháp... có gốc Ấn Độ, làm thành những cộng đồng du cư độc đáo của châu Âu. Và
có lẽ chính ở vùng Andalucía, họ đã tìm thấy quê hương, cây guitar và những vũ
điệu của giống người lang bạt đầy quyến rũ đã làm nên linh hồn của xứ này. Sự gắn bó, am hiểu về văn
hóa Andalusia đã giúp tác giả sáng tạo ra những vần thơ đậm chất dân gian trong
tập thơ Romance gitan. García Lorca
đã giải thích tên tập thơ của mình: "Tôi đặt tên tập romance này là gitan,
bởi vì trong đó tôi ca hát xứ Andalusia, mà chất gitan là biểu hiện thuần tuý
nhất, đích thực nhất của xứ ấy" [5]. Sau tập Romance gitan của Lorca, người
ta gọi García Lorca là "nhà thơ Gitan". Được gọi thế anh cảm thấy thích thú, có
lúc anh còn nửa hư nửa thực gợi ra một giai thoại về "nguồn gốc gitan"
bí mật của mình. Bài Romance of the moon được trích trong tập
thơ Romance gitan.
Sự lãng mạn của mặt trăng
Mặt trăng đến giả mạo
với sự bận rộn của hoa huệ của cô.
Cái nhìn cậu bé, nhìn.
Đứa trẻ được xem.
Trong không khí lung lay
mặt trăng di chuyển cánh tay của cô
Và Ngài dạy, sự vô dầu và tinh khiết,
ngực cô thiếc cứng.
Chạy đi, mặt trăng, mặt trăng.
Nếu Gypsies đến,
làm với trái tim của bạn
dây chuyền và nhẫn màu trắng.
Mặt trăng đến giả mạo
với sự bận rộn của hoa huệ của cô.
Cái nhìn cậu bé, nhìn.
Đứa trẻ được xem.
Trong không khí lung lay
mặt trăng di chuyển cánh tay của cô
Và Ngài dạy, sự vô dầu và tinh khiết,
ngực cô thiếc cứng.
Chạy đi, mặt trăng, mặt trăng.
Nếu Gypsies đến,
làm với trái tim của bạn
dây chuyền và nhẫn màu trắng.
Bên cạnh đó, hình
ảnh cây đàn guitar cũng là một nét đặc trưng văn hóa của Tây Ban Nha. Lorca viết nhiều bài thơ về đàn guitar, trong những thi
phẩm ấy, đàn guitar của ông trở thành hình tượng tinh thần của dân tộc Tây Ban
Nha. Tiếng guitar bắt đầu cùng với bình minh của ngày mới, đó chính là bình
minh của lịch sử Tây Ban Nha. Có con người thể xác đồng thời có con người tâm
hồn. Trong đó có niềm vui bừng nở chan hòa ánh sáng của buổi bình minh và những
giọt nước mắt. Tâm hồn ấy nảy sinh bình dị tự nhiên. Một thứ tâm hồn Tây Ban
Nha rung động cực điểm cháy hết mình không nguôi nghỉ. Tiếng guitar – biểu
tượng văn hóa dân tộc là mạch nguồn mang dấu ấn lịch sử con người Tây Ban Nha.
Nó chứa đầy sức mạnh tự nhiên như gió thổi, như nước chảy. Nó là nguồn sinh khí
dân tộc trường tồn vĩnh cửu và bất diệt.
Văn hóa Tây
Ban Nha trong bài thơ Cây đàn guitar
của Lorca thể hiện qua hình ảnh cây đàn guitar. Như đã giới thiệu ở trên, người Tây Ban Nha coi guitar như một phần không thể thiếu trong đời
sống, guitar chính bản thân nó là biểu tượng cho một nền văn hóa sống động của
người Tây Ban Nha và hiểu được biểu tượng
văn hóa ấy càng khiến người ta thêm yêu mến đất nước, con người Tây Ban Nha và yêu mến tác giả hơn.
Ngoài
bài Cây đàn guitar Lorca cũng viết bài thơ về cây lục huyền cầm (một dạng
guitar phím lõm) của Tây Ban Nha:
Sáu dây
Cây lục huyền
cầm
khiến những giấc mơ than khóc.
Tiếng nức nở của những hồn
lạc lõng
thoát ra từ cửa miệng đàn tròn.
Và như con nhện to
đàn dệt một vì sao lớn
để bắt lấy những tiếng thở dài,
đang trôi nổi trên chiếc thùng đen của đàn
bằng cây [4].
khiến những giấc mơ than khóc.
Tiếng nức nở của những hồn
lạc lõng
thoát ra từ cửa miệng đàn tròn.
Và như con nhện to
đàn dệt một vì sao lớn
để bắt lấy những tiếng thở dài,
đang trôi nổi trên chiếc thùng đen của đàn
bằng cây [4].
2.2.
Hình tượng
2.2.1.
Tiếng guitar – đối tượng trữ tình
Cây đàn guitar từ lâu đã trở thành một
nét văn hóa đặc trưng của đất nước Tây Ban Nha. Sự kết hợp hài hòa độc đáo giữa
đàn guitar, điệu nhảy Flamenco và đấu bò đã tạo nên dấu ấn riêng cho xứ sở này.
Có thể nói, tiếng đàn dường như luôn gắn bó và theo sát Lorca trên khắp các chặng
đường của cuộc đời. Tiếng đàn trở thành nguồn cảm hứng sáng tác vô biên cho tác
giả, những thanh âm, lời ca say đắm của những đêm hội Cante Jondo
với những tiếng đàn dặt dìu đã thấm sâu trong kí ức của tác giả. Để rồi với Cây đàn guitar – một trong những bài thơ
của bài Siguiriya thuộc làn điệu dân ca Cante Hondo mà tác giả gọi là “bài thơ
hoàn hảo của nước mắt”, tác giả đã xây dựng nên một hình tượng tiếng đàn đóng
vai trò của một đối tượng trữ tình, một sinh thể được tạo dựng có hình hài, có
xúc cảm, có khổ đau, có nước mắt, là đối tượng để qua đó tác giả bộc lộ suy ngẫm,
tâm trạng của chính mình… Tiếng đàn ấy vang vọng và lan tỏa đến tâm hồn người đọc
bằng thứ nhạc điệu đa dạng của thế giới tâm hồn nhà thơ. Lorca từng bày tỏ
trong các tác phẩm của mình: “Khi tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn guitar”.
Rõ ràng guitar có một vị trí đặc biệt đối với Lorca, nó là bằng hữu, là anh
em,…nó tượng trưng cho chính bản thân Lorca – một con họa mi luôn khát khao hát
lên những băn khoăn của thời đại nó sống, cho tinh thần của dân tộc Tây Ban Nha
– một dân tộc ấp ủ tinh hoa của những giai điệu mê hồn người.
Chúng ta thấy rằng trong câu đầu tiên
sử dụng các phép ẩn dụ "khóc" để chỉ những âm thanh của cây đàn
guitar, là một dấu hiệu rõ ràng về nỗi buồn của Lorca tại thời điểm ông viết
bài thơ này. Cá tính của Lorca theo nghĩa nhị nguyên nhất định: một mặt, ông là
một người có sức sống rất mãnh liệt và đầy cảm thông với cuộc sống; mặt
khác, cùng tồn tại trong Lorca là một tình trạng bất ổn sâu sắc, một cảm giác của
sự thất vọng, điều đó gần như dự đoán kết thúc bi thảm của mình. Vì vậy,
chủ đề thơ ca của ông sẽ tập trung nhiều vào số phận hay những điều không có khả
năng thực hiện. Thông qua hình tượng tiếng đàn, cảm giác không thể đạt được một
điều gì đó trong tâm trạng Lorca dường như cũng được bộc lộ.
2.2.2.
Tiếng guitar – hình ảnh siêu thực mà cụ thể
Có thể nói, trong thời gian Lorca sáng
tác bài thơ này, những khuynh hướng sáng tác mới mẻ mang tên chủ nghĩa cực đoan
hay sáng tạo chủ nghĩa đang thâm nhập vào Tây Ban Nha cực kỳ mạnh mẽ. Do vậy,
bài thơ không thể tránh khỏi sự ảnh hưởng của trường phái này. Tuy nhiên, là một
con người gắn bó sâu sắc với nguồn cội, với Tổ quốc, Lorca đã không phũ bỏ truyền
thống sáng tác tốt đẹp bao đời của quê hương mà ông đã thực hiện được một sứ mệnh
đẹp đẽ đó là tìm lại cho những vần thơ hồn cốt dân tộc, đồng thời cũng nối kết
được với những mặt tích cực của phong cách sáng tác đương thời. Ông tiếp nhận
cái mới nhưng cũng không đoạn tuyệt với cái cũ. Vì vậy, hình ảnh tiếng đàn
trong bài thơ được xây dựng theo một bút pháp siêu thực tạo nên một nét ấn tượng
sâu sắc cho người đọc, tuy nhiên nó lại được cụ thể hóa qua một loạt các hình ảnh
so sánh thấm đẫm văn hóa truyền thống Tây Ban Nha và chính bản thân hình ảnh tiếng
đàn cũng đã là một nét văn hóa truyền thống của đất nước này.
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh tiếng
khóc. Không ai có thể không bị lay động hay không bị ám ảnh bởi những hình ảnh
trong bài thơ, bởi đó là biểu hiện của sự cô đơn và đau khổ không ngừng. Guitar
khóc – trong âm nhạc, người ta thường nói guitar hát, chứ không phải là guitar
khóc. Tiếng đàn và tiếng khóc từ lúc ấy trở thành hai hình tượng liền kề và
sóng đôi với nhau. Tiếng guitar khóc hay tiếng đàn cất lên nghe như khóc than?
Dường như chúng ta không lí giải được. Nhìn ở một góc độ khác, với chủ nghĩa
siêu thực, tác giả chủ động đặt các sự vật không liên quan gì đến nhau để tạo dựng
một hình tượng mới chứa đựng một nội dung mới. Sự sắp đặt như trên gợi cho
chúng ta tưởng tượng về thanh âm ấy. Nếu xét hoàn cảnh sáng tác của bài thơ,
bài thơ lấy cảm hứng từ những bài ca Cante Jondo,
đặc biệt từ thể Siguiriya là những bài thơ sâu, trầm buồn, “bài thơ hoàn hảo của
nước mắt” thì có lẽ phần nào có thể hiểu được tiếng guitar ấy bản thân nó chứa
đựng sự não nuột, da diết, tiếng guitar như tiếng khóc với những cung bậc,
thanh âm tê tái. Và với cảm xúc đó, người đọc lắng nghe được tiếng khóc sụt sùi
không dứt của cây đàn. Như vậy, tiếng đàn và tiếng khóc không phải là sự sắp đặt
ngẫu nhiên, nếu đi sâu vào khám phá, những hình ảnh ấy bỗng trở nên sáng tỏ trước
mắt người đọc.
Lorca chịu ảnh hưởng bởi chủ nghĩa
siêu thực về hình thức sáng tác, sự tiên tri, những hình ảnh ngẫu hứng lướt qua
đầu. Tuy nhiên, những hình tượng trong thơ ông hầu như chứa đựng sự cụ thể cần
thiết chứ nó không hề quá trừu tượng, tức là, nó luôn tượng trưng cho một điều
gì đó cụ thể. Ông diễn tả cảm xúc, miêu tả hiện tại bằng những hình ảnh có mối
liên hệ tương đồng với những cảm xúc, những hiện thực đó, nói cách khác, ông đã
dùng những hình ảnh ẩn dụ, một cách nghệ thuật và đầy tính siêu thực, để nói
lên chủ đề bài thơ. Điều này làm cho thơ ông đặc biệt sâu sắc và đầy ám ảnh.
Một trong những bút pháp đặc sắc của
thơ siêu thực là sự kết hợp và chuyển đổi hết sức bất ngờ giữa các yếu tố màu sắc
– âm thanh – hình khối… Sự chuyển đổi ấy vừa tạo nên sự hấp dẫn riêng biệt cho
thơ, vừa có thể giúp người đọc hình dung một cách cụ thể về tiếng đàn ấy.
bạn không thể dừng tiếng đàn/khóc cho nên đừng thử
âm thanh ấy vẫn tiếp tục và bạn không thể ngưng, nó mờ đục
như nước/mưa
như tiếng gió xuýt lùa trên tuyết
Từ âm thanh tiếng guitar khóc, bằng ẩn
dụ chuyển đổi cảm giác, tác giả đã cụ thể hóa hình ảnh đầy mơ hồ ấy thành một
hình ảnh có thể nhìn thấy được: tiếng đàn “mờ
đục”; có thể sờ được: “cát nóng miền Nam”. Tiếng khóc ấy ta càng thấy rõ thì lại càng phát hiện
ra một điều: tiếng khóc sao mà yếu ớt, nhỏ nhoi, lặng thầm, như trong bản dịch
thơ của Hoàng Hưng, ông viết:
Tiếng khóc cô đơn
như nước khóc trên sông
như gió gào
trên tuyết
Cách ví von đặc biệt, tiếng khóc được
ví với hình ảnh “nước khóc trên sông”, đó là tiếng khóc bị hòa tan trong đất trời
rồi trở nên vô định. Hay như sự tương đồng giữa tiếng khóc với tiếng gào của
gió trên tuyết không ai có thể cảm nhận được. Tiếng khóc guitar như tiếng nước
đổ trong mưa, như tiếng gió thổi trong tuyết, đều không có dấu hiệu nào chứng tỏ
chúng tồn tại. Qua những hình ảnh so sánh đó, tiếng khóc guitar dần từng bước
in sâu một ấn tượng: những thanh âm tưởng chừng như khi cất lên sẽ gây sự chú ý
cho mọi người, nhất là đối với đất nước của những giai điệu guitar, giờ chỉ còn
là những thanh âm vô hình bi thương không ai đoái hoài đến. Tinh thần dân tộc
theo tiếng đàn ấy cũng lụi tàn dần.
Tiếp theo, tiếng đàn khóc còn được ví
như “hoàng hôn khóc buổi bình minh”, “mũi tên lao vào thinh không”, “cát nóng
miền Nam khóc trà mi trắng”, “chim non trên cành lìa cuộc sống”. Đây đều là những
hình ảnh thiên nhiên gợi nên chất bi ai, xót xa cho mỗi người đọc. Nếu nói rằng
thơ siêu thực được xây dựng với thi pháp liền kề, đối ngẫu và sắp đặt ngẫu
nhiên thì ở đây tác giả đã thể hiện rõ thi pháp ấy. Tuy nhiên, đây đều là những
hình ảnh được chọn lọc kĩ lưỡng. Những hình ảnh này đều là thành quả của sự
sáng tạo, nghiêm túc trong nghệ thuật, mỗi hình ảnh đều có dụng ý riêng như
chính Lorca đã chia sẻ “Tưởng tượng lại bị giới hạn bởi hiện thực. Người ta
không thể tưởng tượng ra những điều không có trong thực tế. Tưởng tượng cần dựa
chắc trên các đối tượng, phong cách, nhịp điệu. Dựa vào logic chặt chẽ của mình,
nó thiết lập mối quan hệ giữa các sự vật đó. Nó mang lại cho nó những ý nghĩa
mà trước đó, ta chưa hình dung nổi. Tưởng tượng chính là bậc thang đầu tiên, mà
cũng là cơ sở của thơ ca nói chung” [2,260]. “Hoàng hôn khóc bình minh” – tiếng
khóc u ám vì hoàng hôn
mãi mãi không có ngày
mai, không thể là ngày mai. “Mũi tên lao vào thinh không” – tiếng khóc bất lực vì mũi tên
“không có gì để nhắm đến”, “không có mục đích”, “không có gì để ước mơ”. “Cát
nóng miền Nam khóc trà mi trắng” - tiếng khóc xót xa vì cát nóng miền Nam thiếu
những đóa trà mi nở rộ; “Chim non
trên cành lìa cuộc sống” - tiếng khóc đau đớn, thảm thương vì “chú chim đầu
tiên của bình minh chết ngay trên cành”, khi chưa cất tiếng hót ban mai. Những
sự vật dường như đều vô định, mất phương hướng. Tiếng đàn khóc với bao giai điệu,
gợi một trường liên tưởng phong phú, từ đó tiếng khóc ấy len lỏi vào cảm xúc
người đọc với tài miêu tả, tài năng sáng tạo vô bờ đúng như nhận xét của
Ghi-dên: “Trong thơ ông có một sự
phong phú trác việt trong tưởng tượng, một sự lấp lánh ánh sáng trong chất liệu”
[2,111]. Những hình ảnh được sắp đặt
ngẫu nhiên nhưng tổng thể mang lại một cảm xúc chung: tiếng khóc/đàn như lời
than vãn, tiếng khóc vang lên như có mũi dao đâm sâu vào tận tâm can của cây
đàn, của chủ thể trữ tình, của tinh thần dân tộc Tây Ban Nha. Cây đàn khóc hay
chính là tinh thần Tây Ban Nha đang khóc trước thực tế lịch sử. Tây Ban Nha vốn
gắn bó với tiếng đàn, do vậy tác giả mượn hình ảnh ấy để nói lên nỗi đau xót của
chính tác giả, của đất nước vì chính những giá trị truyền thống đang bị đe dọa,
vì nỗi khổ đau của người dân Andalucía. Bên
cạnh đó, có thể hiểu cây đàn guitar còn là biểu tượng của văn hóa nhân văn cao
đẹp. Cây đàn ấy là nơi hội tụ lắng lọc của bao tiếng kêu than quằn quại của những
sinh linh khốn khổ, để rồi nghe tiếng đàn ấy, con người càng thêm có động lực
cho những cuộc tranh đấu, tiếng nói của nghệ thuật là tiếng nói có sức mạnh
tranh đấu kì diệu nhất.
Như vậy, qua hình tượng tiếng đàn, một
hình tượng tưởng như khó hiểu nhưng nếu đào sâu tìm tòi qua một hệ thống thi
pháp đặc sắc, ta sẽ tìm thấy những tầng nghĩa thứ hai thú vị. Và trong tầng
nghĩa ẩn mình đó, tiếng lòng của tác giả đồng thời cũng được bộc lộ, đó là thái
độ xót xa, đau đớn trước một thực tế lịch sử trong đó tinh thần Tây Ban Nha
đang bị mai một dần được chuyển tải qua hình tượng tiếng guitar khóc, vừa siêu
thực song cũng vô cùng cụ thể trong cảm nhận của nhà thơ. “Tôi không cho thơ là
một cái gì đó trừu tượng mà là sự vật hiện tồn đích thực, sự vật đang xảy ra ở
bên cạnh tôi. Tất cả những nhân vật trong thơ tôi đều như thế cả. Điều chủ yếu
là phải biết nó bằng chìa khóa thơ ca. Khi người ta thanh thản nhất, vậy là lạch một cái, chìa khóa mở, và bài thơ
xuất hiện với hình thức lộng lẫy của nó” [2, 261]. Cây đàn guitar phần nào cũng là sự phản ánh của quan niệm nghệ thuật
ấy của Lorca.
2.2.3.
Tiếng Guitar - Biểu tượng cho nghệ thuật
Văn học không
bao giờ là sự bê nguyên hiện thực cuộc sống vào trong tác phẩm - thế giới nghệ
thuật trong tác phẩm là một thế giới hư cấu, giống thật chứ không phải là thật.
Để tạo nên một thế giới như thế, nhà văn sử dụng nhiều yếu tố, trong đó có
những biểu tượng nghệ thuật. Biểu tượng là những hình ảnh sự vật cụ thể cảm
tính bao hàm trong nó nhiều ý nghĩa, gây được ấn tượng sâu sắc đối với người đọc.
Biểu tượng nghệ thuật được coi là kí hiệu thẩm mĩ đa nghĩa. Nó chính là sự mã
hoá cảm xúc, ý tưởng của nhà văn. Biểu tượng trở thành phương tiện diễn đạt cô
đọng, hàm súc, có sức khai mở rất lớn trong sự tiếp nhận của độc giả.
Lorca không những thể hiện tài năng văn chương của mình một cách
xuất sắc mà ông còn là một người có tài năng về nhạc, về
hoạ, về sân khấu, về thơ, cả sáng tác lẫn thể hiện (trước khi học văn và luật).
Lorca rất say mê âm nhạc, là một người chơi dương cầm đặc sắc, ông còn là một
hoạ sĩ có nét vẽ duyên dáng. “Con người anh kì diệu, màu nâu, kêu gọi sự toàn
phúc" (Pablo Neruda). Nhìn lại một số tác phẩm của Lorca, ta thấy tài năng
nghệ sĩ đã chi phối rất nhiều đến quá trình sáng tác và cảm thụ văn học của ông.
Cây đàn
guitar là một dụng cụ không thể thiếu trong đất nước Tây Ban Nha kiêu hùng với
những miền dãy núi thấm đẫm những lời ca từ và hát xướng. Nó hiện lên như một
biểu tượng văn hóa đại diện cho đất nước Tây Ban Nha và khi được xuất hiện
trong thơ Lorca nó đã trở thành một biểu tượng cho nghệ thuật.
Cây đàn
guitar là một biểu tượng nghệ thuật rất độc đáo, tích đọng những ý nghĩa sâu
sắc. Nó không chỉ biểu tượng cho cả nền nghệ thuật của đất nước Tây Ban Nha mà
còn thể hiện cho dấu ấn nghệ thuật riêng của Lorca. Đối với mỗi nhà nghệ sĩ,
tiếng đàn là cả một thế giới rộng lớn chứa đựng những điều diệu kỳ nơi tâm hồn
họ đã cảm nhận, là nơi giao thoa mạch cảm xúc giữa hiện thực với sự đồng điệu,
cảm nhận của nhà thơ. Tiếng đàn mỗi khi cất lên mang một giai điệu hài hòa về
một sức sống vui tươi, tràn đầy. Nó cất lên để chào mừng, và mang đến những
niềm vui, niềm hạnh phúc. Thế nhưng, tiếng đàn guitar của Lorca lại mang một âm
hưởng trầm buồn, da diết sâu thẳm. Tiếng đàn cất lên dường như là để mở đầu cho
những bi kịch, cho những chết chóc. Tiếng khóc than của guitar “vang đến tận
bình minh”, cứ mãi trầm bổng, theo từng nhịp điệu của cuộc sống cũng như minh
chứng cho số phận của cả nền văn hóa, một đất nước đang bị suy sụp.
Lorca dường
như cảm nhận được sự cô đơn của văn học Tây Ban Nha trước sự xâm nhập mạnh mẽ
của những trào lưu đương thời. Ông không tìm thấy được một chỗ đứng cho nghệ
thuật dân tộc, nghệ thuật ấy dường như bị cuốn vào dòng xoáy Âu hóa mà ông ra
sức níu giữ. Một mình ông đơn độc như mũi tên không có mục đích để nhắm đến
trong cuộc sống đầy rẫy sự tuyệt vọng.
Như hoàng hôn
khóc buổi
bình minh
như mũi tên
lao vào thinh
không
như cát nóng
miền Nam
khóc cho trà
mi trắng
như chim non
trên cành lìa cuộc sống.
Tuy nhiên,
tiếng khóc ấy cũng vô cùng dai dẳng, bền bỉ, không có một lực lượng nào có thể
dừng lại. Từ đó, ta cũng có thể ngầm hiểu một điều: nghệ thuật Tây Ban Nha, nghệ
thuật truyền thống trước sức mạnh vũ bão của văn hóa ngoại lai, sẽ luôn tìm
thấy được chỗ đứng của mình. Đồng thời, tiếng khóc “không thể lặng im” còn thể
hiện niềm tin của Lorca về nghệ thuật dân gian vẫn âm ỉ cháy, như tiếng đàn của
những làn điệu Cante Hondo sâu thẳm vẫn trường tồn trong văn hóa, trong kí ức
người dân Tây Ban Nha.
Tiếng đàn là
biểu tượng cho giá trị nghệ thuật, mà nghệ thuật chính là cái đẹp. Tiếng đàn
mang giá trị tinh thần được lưu truyền mãi trong không gian và thời gian nên nó
cũng là cái đẹp. Tiếng guitar đã trở thành một biểu tượng nghệ thuật đem lại
giá trị độc đáo và chiều sâu trong toàn bộ tác phẩm.
2.3.
Ngôn ngữ
Ngôn ngữ mà thi sĩ Lorca sử dụng trong bài thơ Cây đàn guitar giản dị, không cầu kì,
không trau chuốt nhưng chứa đựng những suy tư, thâm trầm, những cảm nhận nhạy
bén, giàu sức gợi.
Ghi-ta
bắt đầu khóc
như chim non trên cành
lìa cuộc sống
Bên cạnh đó, ngôn ngữ được ông sử dụng trong bài thơ này còn mang
đậm đặc tính của thơ siêu thực. Ông không trực tiếp miêu tả cây đàn mà tập
trung miêu tả một thế giới của tưởng tượng và cảm xúc mà cây đàn ấy gợi nên.
Hình ảnh cây đàn guitar cũng chính là cuộc đời của chính bản thân Lorca.
“Vỡ ra
ly của bình minh”
“như nước khóc trên sông
như gió gào
trên tuyết”
“như mũi tên
lao vào thinh không
như cát nóng miền Nam
khóc cho trà mi trắng”
Ngôn ngữ được sử dụng trong bài thơ này rất giàu sức gợi, tác giả
không trực tiếp nói lên những sự vật, hiện tượng cụ thể mà chỉ thông qua những
hình ảnh thơ siêu thực gợi lên những liên tưởng trong người đọc.
“¡Oh guitarra!
Corazón malherido
por cinco espadas”
“Ôi đàn!
con tim bị thương
bởi năm thanh kiếm”
“Por cinco espadas”, chuyển là “bởi năm thanh kiếm”. Nhưng không có ý nghĩa gì cho bài thơ
và đàn guitar với năm lưỡi gươm. Khi tra cứu mới hiểu, năm lưỡi gươm chỉ là một
lối nói để đề chỉ một cách chơi đàn guitar theo nhạc điệu flamenco. Nhạc sĩ
dùng cả năm ngón tay bay nhảy trên sáu dây đàn như năm lưỡi gươm xuyên thấu vào
tim người nghe.
Ngôn ngữ trong bài thơ này cũng rất giàu nhạc điệu, cụ thể ở đây
tác giả đã xây dựng nên bài thơ dựa trên nhịp điệu flamenco – tiếng nhạc của
quê hương xứ sở Tây Ban Nha, lúc nhanh lúc chậm, lúc dồn lúc lơi:
“Ai bắt được
nó ngừng.
Như hoàng hôn
khóc buổi bình minh
như mũi tên
lao vào thinh không”
“Ôi
đàn!
con
tim bị thương
bởi năm thanh kiếm.”
2.4.
Thủ pháp nghệ thuật
Với bài thơ Cây đàn guitar, Lorca đã sử dụng hàng loạt
biện pháp tu từ như nhân hóa, ẩn dụ, so sánh... nhằm làm nổi bật lên hình ảnh
cây đàn guitar. Với hình ảnh cây đàn guitar, loại nhạc cụ truyền thống của xứ sở
Tây Ban Nha ông đã nhân hóa nó trở thành một vật thể có cảm xúc, có tâm hồn.
Guitar - một vật thể tưởng chừng như vô tri vô giác nhưng khi đi vào trang thơ
của Lorca nó lại biết khóc. Phải chăng tiếng khóc của cây đàn guitar cũng là tiếng
khóc của chính bản thân Lorca? Ngoài việc nhân hóa cây đàn guitar làm cho bài
thơ trở nên sống động hơn, Lorca còn sử dụng biện pháp nhân hóa với một loạt
hình ảnh thơ như: “gió gào trên tuyết”, “cát nóng khóc trà mi trắng”, “nước
khóc trên sông” và “hoàng hôn khóc buổi bình minh".
Bên cạnh đó, một biện pháp nghệ thuật quan trọng được Lorca sử dụng
trong bài thơ này đó chính là thủ pháp so sánh. Thủ pháp so sánh được Lorca sử
dụng ở đây rất đặc biệt, khi so sánh A như B thì những hình ảnh ông sử dụng
không hề đơn giản, mà hình ảnh so sánh ở đây rất phi lí, bất ngờ, gây sửng sốt,
có gốc rễ từ trong những giấc mơ, từ trong vô thức của tác giả, đây chính là đặc
trưng của thơ siêu thực. Tiếng khóc của cây đàn guitar được Lorca so sánh với
tiếng khóc trên sông của nước, tiếng khóc của cát dành cho hoa trà mi trắng… Việc
so sánh với những hình ảnh siêu thực, phi lí như vậy gợi ra trong tâm thức của
người đọc những nỗi ám ảnh về nỗi đau của cây đàn guitar (nỗi đau của chính
Lorca).
Một biện pháp nghệ thuật khác được Lorca sử dụng đó chính là điệp
cú pháp. Chúng ta thấy có hai câu được lặp lại:
Empieza el llanto
de la guitarra
(Ghi-ta
bắt đầu khóc)
và
Es imposible
Callarla
(Ai bắt được
nó ngừng)
Lorca sử dụng kỹ thuật điệp và phối hợp với thể hát dân gian
như những bài hát luôn luôn có điệp khúc, những câu chữ lặp lại mà ta thường dễ
bắt gặp. Điều này tạo nên nhạc tính cho bài thơ, đồng thời nhấn mạnh tiếng khóc
không dứt của cây đàn guitar cũng như niềm tin của tác giả về sự bất diệt của
tiếng đàn.
Về cách trình bày bài thơ, ông thường dùng hình thức chuỗi
thơ thường thấy trong truyền thống thi ca Âu Châu. Nhưng trong chuỗi thơ của
ông đa phần những đoạn thơ không liên tục, chỉ có tính cách tập hợp. Mỗi đoạn
thơ trình bày mỗi khía cạnh, mỗi tâm tình và nhiều đoạn cho thấy tổng thể của
bài thơ. Ông thường gọi là ca khúc hoặc tổ khúc. Ứng vào Cây đàn guitar, phong cách này càng được thể hiện rõ. Bài thơ là một
chuỗi những lời thơ được xếp cạnh nếu nhìn vào người đọc không cảm thấy chúng
có mối liên hệ nào với nhau, ý này qua ý khác, nối liền nhau dường như không
theo một trật tự logic nào. Sự chuyển tiếp từ đoạn đầu: “Ghi – ta/ bắt đầu
khóc…như chim non trên cành/ lìa cuộc sống” cho đến đoạn cuối “Ôi đàn!/ Con tim
bị thương/ bởi năm thanh kiếm” cũng hoàn toàn gây bất ngờ. Tuy nhiên nếu như đoạn
đầu nói về tiếng khóc của cây đàn thì đoạn sau dường như tiếp nối, liên kết và
thể hiện một ý nghĩa cao hơn: tiếng đàn “khóc” là do “năm thanh kiếm” tác động
vào. Chỉ mới xét đến tầng nghĩa ban đầu, ta thấy bài thơ cũng đã phần nào thể
hiện đậm nét phong cách sáng tác đặc trưng của Lorca.
Ngoài ra, cách vắt dòng thơ cũng tạo nên một hiệu quả đặc biệt.
Tác giả kéo dài câu thơ bằng lối viết rơi dòng với những chữ đầu dòng không viết
hoa. Đây được xem là phương thức vắt dòng, vừa tạo độ dài cho câu thơ, truyền hết
được những ý tưởng mà những câu thơ theo hình thức thông thường không có khả
năng diễn đạt trọn vẹn, tạo nhịp điệu cho bài thơ, tạo điểm nhấn trong cảm xúc
chủ thể trữ tình. Cách ngắt dòng bất ngờ đó làm cho mạch cảm xúc của chủ thể trữ
tình tác động rất mạnh đến tâm hồn người đọc. Thường những chỗ không viết hoa
và đột ngột xuống dòng chính là điểm dừng để nguồn cảm xúc chất chứa của chủ thể
trữ tình được đẩy lên đến cao trào. Nhưng đôi khi chỗ đột ngột xuống dòng lại dẫn
đến vực thẳm của sự đổ vỡ như trong những câu thơ sau:
Như
hoàng hôn
khóc
buổi bình minh
như
mũi tên
lao
vào thinh không
2.5.
Chủ nghĩa cực đoan
Bài thơ Cây đàn guitar của Lorca được sáng tác theo trường phái siêu thực (Surréalisme). Tuy nhiên biến dạng của nó ở các
nước nói tiếng Tây Ban Nha có tên gọi khác là “sáng tạo chủ nghĩa” hay “cực
đoan chủ nghĩa”. Sở dĩ chủ nghĩa siêu thực được gọi là chủ nghĩa cực đoan bởi
nó là tiếng nói bất mãn với xã hội tư sản, là sự nổi loạn chống lại trật tự tư
sản để đi đến một hiện thực cao siêu (siêu thực) với tinh thần vô chính phủ. Đó
là xét trên bình diện chính trị, tư tưởng. Còn xét trên bình diện văn học chủ
nghĩa cực đoan là mức độ cao nhất của chủ nghĩa siêu thực.
Chủ nghĩa siêu thực là một khuynh
hướng văn học ra đời vào những năm 20 của thế kỷ XX ở Pháp trên cơ sở thuyết
phân tâm học và “cõi Vô thức” của
Sigmund Freud và thuyết trực giác phi lí tính của Bergson, nó còn có tên
gọi khác chủ nghĩa tượng trưng hậu kỳ. Năm 1924, sau khi đã công nhận Tristan
Tzara là một nhà tiên tri, André Breton (1896-1966) cho ra đời Bản tuyên ngôn
đầu tiên của chủ nghĩa siêu thực (Premier Manifeste du Surréalisme). Chủ nghĩa
siêu thực cho rằng có hai thế giới “Thế giới hiện thực, theo Breton, là thế
giới có thể nhìn thấy được, hoặc sờ mó được như con ngựa, mặt ngoài của nhà hát
opera Pari, đường chân trời… Còn thế giới siêu thực, chỉ có thể cảm thấy trong
giấc mơ, trong tiềm thức, lúc đãng trí, thần kinh suy nhược, tinh thần rối
loạn…” [1,580]. Breton cho rằng miền sáng tạo của nhà nghệ sĩ phải nằm ở thế
giới siêu thực, chỉ có nơi đây thì sự giao cảm mới đạt đến ngưỡng tuyệt đối,
nghệ sĩ mới có thể khám phá ra những điều thiêng liêng, thần bí và sâu sắc nhất
của cuộc sống con người. Quan niệm có hai thế giới thì đồng thời các nhà siêu
thực cũng quan niệm bên trong “Con người toàn nguyên” có hai phần: “Con người
biểu hiện” và “Con người ngủ”. Nhiệm vụ của các nhà siêu thực không gì khác hơn
là cởi trói cho “Con người ngủ” bằng việc nỗ lực khám phá những bí ẩn từ miền
hoang vu: vô thức, tiềm thức, chiêm bao trong chính “Con người ngủ”.Từ đây Breton
lên án lí trí và văn hóa, ca tụng sức mạnh trọn vẹn của thế giới tưởng tượng và
mơ mộng như là một phương thức hiểu biết. Đặc biệt, căn cứ vào “Thuyết tương
đối” của Albert Einstein, các nhà siêu thực có quan niệm về cái “Hư ngụy”
(Faux: tạm dịch sai biệt, giả dối) của không gian và thời gian trong thế giới
hằng ngày. Thế nên họ cho rằng hình ảnh mà ta nhìn thấy về thế giới chỉ là “Hư
ngụy” và do đó phải đi tìm một thế giới khác – thế giới siêu thực đối lập với
cuộc sống thường nhật.
Chủ nghĩa siêu thực tin tưởng vào
tính tự động hoàn toàn của tâm linh được biểu hiện một cách vô thức qua chữ
viết, lời nói hoặc bằng bất cứ phương tiện nào đó sự vận động của dòng tư tưởng
mà không bị chi phối, kiềm hãm bởi lí trí. Chính vì sáng tác dựa vào tâm linh
nên chủ nghĩa siêu thực gạt bỏ mọi quy tắc trong ngữ pháp và thi pháp, mọi
nguyên tắc tư duy logic, dâng hiến tất cả cho cảm hứng. Nhà thơ “tốc ký” tâm
trạng của mình, chắp nối những mảnh vỡ ám ảnh, ảo giác, những mẫu vụn của ngôn
từ vừa xuất hiện mà bất cần sắp xếp theo quy tắc logic.
Chủ
nghĩa cực đoan là mức độ cao nhất của chủ nghĩa siêu thực. Tại đây nhà nghệ sĩ
cảm nghiệm mọi thứ bằng những biểu tượng (symbole) mang tính “khải thị” để khám
phá thế giới tiên nghiệm, tiềm thức. Đặc biệt chủ nghĩa cực đoan trong thơ được thể hiện
rõ nhất qua việc đặt những yếu tố cực kỳ khác nhau trong hiện thực để đối chiếu
cái không thể đối chiếu được (phép so sánh kỳ lạ), nhằm tạo những hình ảnh,
hình tượng mang tính sững sờ.
Thơ
siêu thực được sinh ra từ hai phát hiện lớn: cái viết tự động và hình ảnh. Khi
thơ thiếu vắng vần luật thì hình ảnh quyết định cho bài thơ. Hình ảnh trong thơ
siêu thực là những va đập chói lòa của từ ngữ (J.Vaché) thường mang tính chất mộng
mị, chiêm bao. Theo Robert Bréchon thì có 3 cấp độ cơ bản của thơ siêu thực đó
là:
Cấp
độ 1: từ “như” so sánh: so sánh có 2 vế A như B này đơn giản và phổ cập quát
ngay từ trong ca dao dân gian đã có: “Thân em như hạt mưa sa…” Tuy nhiên, vế B
của thơ siêu thực thường gây sửng sốt, chói lòa, bất ngờ bởi tính chất mộng mị,
siêu thực của nó:
Bão tố của mùa màng tốt tươi như bàn tay không ngón
Eluard
Cấp
độ 2: thay vì kết hợp bởi liên từ như thì A và B lại được đặt cạnh nhau:
Cây hoa đinh những đôi môi sản sinh
Em duy nhất và anh nghe thấy cỏ từ tiếng em cười
Eluard
Cấp
độ 3: ẩn dụ cụt, nghĩa là không còn sự đặt gần nhau của hai phần được so sánh nữa
mà là sự thay thế từ vế này sang vế kia. Đây là loại hình ảnh được kết hợp phức
tạp nhất của siêu thực:
Trên cây cầu, vào cùng một giờ
Cũng vậy hạt sương trên đầu con mèo cái đang tự dối
mình.
Breton
Và
khi đọc bài thơ Cây đàn guitar
của F.G.Lorca,
ta thấy cấp độ thứ nhất của thơ siêu thực được thể hiện rõ nhất. Trong bài thơ
hàng loạt liên từ so sánh như đã được sử dụng:
Tiếng
khóc cô đơn
như nước
khóc trên sông
như
gió gào
trên tuyết
…
Như
hoàng hôn
khóc buổi bình minh
…
như
cát nóng miền Nam
khóc cho trà mi trắng
Tiếng
khóc của cây đàn ghi ta lại được so sánh với “nước khóc trên sông”, “gió gào
trên tuyết”, “hoàng hôn khóc buổi bình minh”, “cát nóng miền Nam khóc cho trà
mi trắng”… là những hình ảnh đầy tính bất ngờ, nghịch dị, xa lạ được đặt cạnh
nhau trong sự đối chiếu kỳ quái.
Bên
cạnh đó, Lorca còn sử dụng những từ ngữ kiểu cách, kỳ lạ như “nước khóc trên
sông”, “gió gào trên tuyết”, “con tim bị thương bởi năm thanh kiếm”… Âm luật và
cú pháp rất thất thường, không theo một quy cách, lề lối nào:
Ai
bắt được nó ngừng
ai
bắt được nó
lặng
im.
Tiếng
khóc cô đơn
như
nước khóc trên sông.
Đấy
chính là chủ trương sáng tác của những người nghệ sĩ thoát li mọi liên hệ với
thực tế xã hội.
Qua
việc sử dụng phép so sánh kì lạ giữa âm thanh của tiếng đàn guitar với “tiếng
khóc”, “tiếng gió xuýt lùa trên tuyết”, “bãi biển phương nam ấm áp”, “đóa hoa
nhài nở rộ”,… ta thấy mọi ranh giới hư
và thực, cái hữu hình và cái vô hình, thế giới cảm xúc và phi cảm xúc đều bị
xóa nhòa. Mọi giác quan đều bị nhiễu loạn từ thính giác đến thị giác. Thông qua
tiếng guitar ngân vang thổn thức ta dường cảm nhận được sự cô đơn, tuyệt vọng đậm
sâu của thi sĩ Lorca người đã dâng hiến trọn vẹn trái tim cho đất nước Tây Ban
Nha (Tây ban cầm).
2.6.
Duende
Duende là một khái niệm được Lorca nhắc đến trong một bài nói chuyện
về nghệ thuật. Ông đưa ra khái niệm duende để so sánh với vai trò của
"nàng thơ" và "thiên thần" trong sáng tạo nghệ thuật. Theo
ông, "thiên thần" bay cao phía trên đầu người, ban ân sủng cho con
người đón nhận một cách thụ động. "Nàng thơ" thì mách bảo, gợi nguồn
cảm hứng và nhà thơ như nghe thấy những tiếng nói mơ hồ... Song, cả "thiên
thần" và "nàng thơ" đều ở bên ngoài nhà thơ, đem đến cho anh ta
ánh sáng và hình thức. Còn duende, đó là cái phải đánh thức từ trong tận cùng
sâu thẳm của máu ta, nó đốt cháy máu ta, nó "vứt bỏ thứ hình học êm đềm ta
học được, nó đập vỡ các bút pháp", nó là "quyền lực chứ không phải cấu
trúc, cuộc chiến đấu chứ không phải tư duy", nó là cái mà Goethe đã nói đến:
"Quyền lực bí mật mà mọi người đều cảm thấy nhưng không triết gia nào giải
thích được", nó là "tinh thần của đất". Và Lorca cho rằng nghệ
thuật của Tây Ban Nha là nghệ thuật của duende.
Duende là một khái niệm nghệ thuật được Lorca đề ra trong quá trình
sáng tác văn chương, nghĩa là khi chắp bút tạo nên một tác phẩm, nhà văn cần
sáng tạo ra lối viết của riêng mình, không nên đi theo khuôn mẫu truyền thống của
văn chương, Lorca đề ra khái niệm nghệ thuật Duende
cũng chính là muốn đề cao năng lực sáng tạo của nhà văn trong quá trình sáng
tác văn chương, và nhất là hạn chế sáng tác dựa theo nghệ thuật “nàng thơ” và
“thiên thần”. Một trong những biểu hiện của nghệ thuật Duende là lối viết tượng
trưng siêu thực.
Lorca đưa ra khái niệm Duende như một phương cách để đổi mới lại
công việc sáng tạo nghệ thuật. Trong một số bài thơ, ông đã sử dụng duende để
sáng tác những bài thơ của mình, trong đó có bài Cây đàn guitar. Thế nhưng đôi khi, trong một số ít những bài thơ
khác, ông thường sử dụng hòa hợp cả ba yếu tố “thiên thần”, “nàng thơ” và
duende. Trong tập Romance gitan và Than khóc Ignacio, sự thuần khiết của
hình thức, những cấu trúc có trí tuệ thật hài hoà với cảm xúc cuồn cuộn, chất
bi thương, chất nhục cảm, sức ám thị của từ ngữ, và cả một cái gì có tính cách
linh thị, ảo giác.
Lorca dùng hình ảnh tiếng đàn như một sinh thể có tâm trạng, một
con người với những dòng nước mắt đẫm lệ than khóc. Những câu thơ trong bài từ
cõi thẳm sâu tiềm thức của Lorca trở thành những dòng buồn thương da diết, tiết
điệu nhịp nhàng thế nhưng nó lại ngân lên những hồi chuông mang một sự ám ảnh,
cho ta thấy một điều gì đó như trí tuệ kiểm soát trong thơ ông, những tiếng
khóc, những cảnh tượng hãi hùng và nhiều lúc phi lý, tối tăm như những gì đè nặng
lên ta trong những cơn ác mộng.
Dõi theo tiến trình thơ Lorca, ta thấy ông có xu hướng ngày càng
muốn đi xuống chiều sâu hồn người, như mũi dao nhọn vào sâu những lớp thịt đau
đớn để tìm đến tận “gốc rễ của tiếng kêu”. Nhà thơ đã từng tâm sự: “Bây giờ tôi
làm một thứ thơ mở toang mạch máu…” (với bốn người bạn của ông là Granada,
Sevilla, Malaga, Cordoba). Thấy được tiến trình ấy ta dễ dàng đón nhận sự đột
biến trong thơ ông vào những năm 1929-1930, đột biến khiến nhiều người ngỡ
ngàng đến mức không nhận ra Lorca hoặc có người – vô tình hay cố ý – còn không
muốn nhắc đến khi nói tới Lorca mà họ chỉ quen như “con chim hoạ mi Andalucía” và chỉ như thế mà thôi.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1.
Phương
Lựu (chủ biên), Lí luận văn học, Nxb
Giáo dục, 1996.
2.
Nguyễn Quân – Vương Trí Nhàn (dịch và biên soạn), Mười nhà thơ lớn của thế kỷ, Nxb Tác phẩm
mới, 1982.
3.
Ngu Yên, Thơ Federico
Garcia Lorca, 9810 ấn bản và phát hành, 2013.
4.
Bằng Việt, Từ điển văn học tập 1, tr. 242 – 243,
Nxb KHXH, 1983
5.
Phần chính in trong Thơ Federico García
Lorca, bản dịch của
Hoàng Hưng, Nxb Sở Văn hoá Lâm Đồng, 1988. Bản đăng trên talawas có bổ sung của
tác giả.