Mục
lục
Tản
Đà( 1889- 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Quê hương ông nằm bên
bờ sông Đà, gần chân núi Tản Viên, bởi lẽ đó sau này ông mới lấy tên hiệu là Tản
Đà.
Tản
Đà thuộc dòng dõi quý tộc, có truyền thống khoa bảng. Tổ tiên ông xưa kia có
nhiều đời làm quan dưới triều Lê. Cha là Nguyễn Danh Kế, từng thi đỗ cử nhân,
làm quan cho nhà Nguyễn đến chức ngự sử trong kinh, nổi tiếng là người có tài
văn áng trong triều. Mẹ là Lưu thị Hiền, là một đào hát tài sắc ở Hàng Thao-
Nam Định, hát rất hay và bà nổi tiếng có tài làm thơ Nôm. Tản Đà là con trai út
của hai ông bà.
Trong
số anh chị em của Tản Đà thì có Nguyễn Tài Tích ( là anh cùng cha khác mẹ) là
người có ảnh hưởng rất to lớn đến cuộc đời Tản Đà sau này.
Thời
niên thiếu, Tản Đà phải trải qua nhiều giai đoạn đau khổ. Ba tuổi thì cha mất,
gia đình ông trở nên túng thiếu, một năm sau thì mẹ cũng bỏ đi, tám năm sau thì
chị gái cũng theo mẹ làm nghề ca xướng.
Tản
Đà hấp thụ nền nho giáo từ nhỏ, được anh trai hướng vào con đường cử nghiệp.
Lên năm tuổi, ông đã học Tam tự Kinh, sáu tuổi học luận ngữ, kinh, truyện và chữ
quốc ngữ; mười tuổi biết làm câu đối và lúc 11 tuổi đã làm thơ văn. Năm 14 tuổi
Tản Đà đã thạo các lối từ, chương, thi, phú và đến năm 15 tuổi ông đã nổi tiếng
là một thần đồng của tỉnh Sơn Tây.
Năm
1909, ông tham dự và bị trượt kì thi hương ở Nam Định. Rồi sau đó ông quay về
nhà ở Phủ Vĩnh Tường ôn thi, ở đây ông đã gặp và đem lòng yêu say đắm một cô
gái, nhưng vì gia cảnh nghèo đói nên không có tiền để làm lễ cưới, ông quyết định
chỉ có tiếp tục con đường khoa cử thì mới đổi đời được. Nhưng trong kì thi
Hương mùa thu năm ấy, ông dự thi và lại bị trượt. Chán nản, ông bỏ về Hòa Bình
để khuây khỏa, tại đây ông đã gặp và kết giao với nhà tư sản Bạch Thái Bưởi.Hai
người trở thành tri kĩ; cùng uống rượu, làm thơ, đọc sách…, thời gian này ông
cũng có cơ hội tìm hiểu về cuộc cách mạng Tân Hợi.
Năm
1913, Nguyễn Tài Tích mất, Tản đà quyết định về Vĩnh Yên làm nghề báo, tờ báo
mà ông cộng tác đầu tiên là “Đông Dương tạp
chí”.
Năm
1915, ông lấy vợ là bà Nguyễn thị Tùng. Cũng năm này ông đã có tác phẩm hay được
đăng trên “Đông Dương tạp chí” và nó
nhanh chóng có được tiếng vang lớn trên văn đàn.
Năm
1916, ông chính thức lấy bút danh là Tản Đà và chọn con đường của một người viết
văn, làm báo chuyên nghiệp.
Từ 1915- 1916, ông có những tác phẩm hết sức đắc
ý: Năm 1915 cuốn sách đầu tiên được xuất bản, gây được tiếng vang lớn, đó là tập
thơ “ Khối tình con I”. Sau thành
công đó, Tản Đà viết liền “Giấc mộng con”,
tuồng “ Người cá, Tây Thi, Dương Quý
Phi…”.
Năm
1917, tác phẩm của ông được đang trên “ Nam
Phong tạp chí” do Phạm Quỳnh sáng lập.
Năm
1919- 1921, Tản Đà viết một loạt sách: Truyện “ Thần tiên”, “Đàn bà tàu”;
sách giáo khoa, luân lý; thơ thì có tập “Còn
chơi”
Năm
1922, Tản Đà thành lập “Tản Đà thi điếm”.
Tại đây xuất và tái bản hết những sách quan trọng trong sự nghiệp của ông như “ Tản Đà tùng văn”, “Truyện thế gian”…
1926,
Tản Đà sáng lập “An Nam tạp chí”.Sự
ra đời của “An Nam tạp chí” cũng là dấu
mốc bắt đầu cho quãng đời lận đân của ông.Từ đây, Tản Đà bắt đầu đi du lịch khắp
nơi, nên An Nam tạp chí cũng ra rải
rác, thất thường. Dần dần những cuộc đi của ông trở thành những cuộc trốn nợ hoặc
giải sầu hay tìm người tài trỡ cho tạp chí. Giai đoạn này cũng có một số tác phẩm
ra đời như Nhàn tưởng (1929), Giấc mộng lớn (1929), Thề non nước …
1931- 1932, Tản Đà có cuộc bút chiến với
Phan Khôi về luân lý và Tống nho.
1933,
An Nam tạp chí chính thức đình bản khi phong trào Thơ mới nổi lên.
Do ảnh hưởng của phong trào Thơ mới và
phong trào theo Tân học, Tản Đà- con người thuộc phe cựu học, làn thơ cũ đã dần
dần trở nên cô độc, Tên tuổi của ông lúc này dường như bị đẩy vào dĩ vãng, nhường
chỗ cho các nhà thơ mới như Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư…
Tản
Đà trở nên nghèo túng, may là những năm cuối đời ông đã được mọi người quan tâm
trở lại, các nhà thơ mới bắt đầu xem lại những cống hiến của ông, rồi ca ngợi
ông, xem ông như một ông Thánh của làng Thơ Việt Nam.
Khi sức khỏe đã suy yếu, Tản Đà giành hết
tâm sức dịch thuật và biên tập “Liêu Trai
Chí dị” của Bồ Tùng Linh và “Vương
Thúy Kiều chu giải tân truyện”…
Ngày
07/06/1939, Tản Đà mất khi tròn 50 tuổi.
Sau
khi ông mất, trên văn đàn lại càng ca ngợi ông hơn và đặt ông lên ghế “chủ súy” của hội tao đàn, xem Tản Đà như
một người mở lối cho thi ca Việt Nam bước vào một giai tươi đẹp mới.
Sự
nghiệp sáng tác của Tản Đà hết sức phong phú và đa dạng.
Thơ
là lĩnh vực quan trọng nhất trong sự nghiệp phong phú ấy của ông. Có thể nói, từ
thập niên 1920 cho đến nửa đầu thập niên 1930, văn đàn Việt Nam không có một
nhà thơ nào nổi tiếng và được yêu mến như Tản Đà. Tản Đà sáng tác rất nhiều
thơ, ở nhiều thể loại cả về nội dung lẫn hình thức. Thơ Tản Đà hay diễn tả cảm
giác say sưa, chán ngán đời thực, đắm chìm trong cõi mộng, những mối tình với
người tri kỉ xa xôi, song cũng có những bài mang tính ẩn dụ, ngầm phê phán hiện
thực. Thơ ông thường làm theo thể cổ phong, cũng có khi theo thể đường luật, đường
luật phá thể, hay thể lục bát, song thất lục bát. Ngoài ra thể loại ca trù hay
hát nói cũng là một lĩnh vực nổi bật trong sáng tác của ông. Nội dung của nó thể
hiện triết lý sống phóng khoáng, một tâm hồn hay mơ mộng, hoài cổ nhưng man mác
nỗi sầu nhân thế.
Bên
cạnh đó, các lĩnh vực như thơ ca dân gian, văn, báo chí cũng là một thành công
lớn cho sự nghiệp của Tản Đà. Đặc biệt là báo chí, từ khi có bài được đăng trên
“Nam Phong tạp chí” cho đến về sau Tản Đà luôn cho người đọc thấy được mình là
một cây bút đầy tài năng. Chỉ tiếc thay cho sự nghiệp báo chí ấy cũng gian nan
như chính cuộc đời ông vậy.
Tản
Đà đã để lại cho nền nghệ thuật Việt Nam những tác phẩm vô cùng giá trị. Có thể
kể đến là những tập thơ “ Khối tình con I, II, III”, “Tản Đà xuân sắc”, “ Thơ Tản
Đà”… Về văn phải kể đến “Giấc mộng con I, II”, “Giấc mộng lớn”, “Thề non nước”…Ông
cũng để lại nhiều tác phẩm kịch đặc sắc như Tây Thi, Tống biệt và một số bản dịch
thuật như Liêu Trai chí dị…
Với một tâm hồn mới mẻ, “cái tôi” lãng mạn,
bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương, ưu ái trong thơ văn
ông đã chinh phục thế hệ độc giả mới đầu thế kỉ XX. Giữa lúc thơ phú nhà nho
tàn cuộc, Tản Đà có lối đi riêng, vừa tìm về với ngọn nguồn thơ ca dân gian và
dân tộc, vừa có những sáng tạo độc đáo, tài hoa. Thơ văn Tản Đà có thể xem như
một gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.
Cũng như Xuân Diệu từng nói: “ Tản Đà là
thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất đã
có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một
bản ngã, dám giữ một cái tôi” (Công của thi sĩ Tản Đà- Thơ Tản Đà, tác phẩm và
lời bình, NXB Văn học, 2007, tr 173).
Nói về “ngông”, theo cuốn “Tản Đà thơ và đời”
(NXB Văn học, 1995, tr 100) cho rằng: “Ngông
trước hết là một tính cách. Biểu hiện của tính cách đó là những hành động khác
đời gây nên sự chú ý của số đông, những hành động ngông thường mang tính chất
ngang tàng, phóng túng, đùa cợt.Tính cách ngông biểu hiện một mâu thuẫn với số
đông bình thường, nó tách ra, nổi lên.Tính cách ngông vừa mang tính bi kịch lại
vừa mang tính hài kịch và nó là sự phủ định thực tại, chỉ trích thực tại bằng sự
giễu cợt và khinh thường.
Ngông cũng là một cách sống, cách sống
ấy vượt ra ngoài khuôn khổ của xã hội đương thời, trở thành một thách thức với
xã hội đó.Cách sống ấy mang tính chất chủ quan và coi thường dư luận xã hội.
Ngông còn là một hiện tượng tư tưởng: đó là tư tưởng bất mãn, bất đắc
chí, bất cần đời, khinh thế ngạo vật.
Một con người không có bản lĩnh không thể ngông, không có tâm sự không
thể ngông, không đối kháng và phủ định thực tại trong những khía cạnh nào đó
cũng không thể ngông”.
Như vậy, ta có thể hiểu “ngông” thể hiện
thái độ, phản ứng của người nghệ sĩ tài hoa có cốt cách, tâm hồn khác biệt với
người thường, không chấp nhận sự đơn điệu mà luôn phá cách, sống phóng túng, tự
do khẳng định cá tính và bản lĩnh của mình.
Cái
tôi thoát ly được biểu hiện qua thái độ chán ghét thực tại của Tản Đà và tìm lí
tưởng trong một thế giới mới- thế giới thần tiên, thế giới của mộng ảo.Thoát ly
thực tại, thoát ly cõi trần để sống và mơ ước ở chốn thần tiên, thơ Tản Đà đưa
ta vào thế giới mới, khác xa cuộc sống tù túng thường ngày.Ở thời đại lúc bấy
giờ, cảm hứng thoát ly là một cảm hứng mới mẻ, độc đáo, khác hẳn cách sống của
nhiều nho sĩ đời xưa.Thơ ông chính là một nỗi khát vọng thiết tha cháy bỏng
thoát ly ra ngoài cái tù túng, vượt ra khỏi sự giả dối, khô khan của đời sống
thực. Ông quan niệm cuộc đời là một giấc chiêm bao:
Đời người như giấc chiêm bao
Nghìn xưa đã
mấy ai nào trăm năm.
(Thơ
rượu)
Một phần cũng vì cuộc sống thực tế của ông lúc
bấy giờ rất khó khăn, bế tắc nên ông muốn vượt ra ngoài những bế tắc đó, mà muốn
thoát ly ra khỏi những bế tắc ấy thì cách mà Tản Đà chọn lại khác với mọi người.
Đó là ông chọn cách thoát ly vào trong cái mộng, có thể vì ông là nhà thơ lãng
mạn nên ông chọn cách thoát ly khác người như vậy.Nhưng chúng ta phải nhìn vào
thực tế lúc bấy giờ để hiểu được rằng vì sao ông lại chọn cách thoát ly thực tế,
quay lưng lại với cuộc sống để hướng về cõi mộng như thế. Hết “ giấc mộng con”
rồi đến “giấc mộng lớn”, chìm đắm trong hoang tưởng khi gặp trời, tiên, cùng
danh nhân kim cổ. Cõi mộng là nơi thể hiện “cái tôi thoát ly” của nhà thơ và mộng
là một tính chất, một nội dung đặc biệt trong thơ Tản Đà. Tản Đà từng nói: “ Mộng
là mộng, đời người cũng là mộng, mộng là cái mộng con, đời là cái mộng lớn chỉ
khác nhau về dài ngắn lớn nhỏ mà thôi”. Như vậy, ông cho rằng trong đời người
ta có hai thứ mộng: Mộng con là những điều ta thấy trong chiêm bao, mộng lớn là
cuộc đời ta. Mà cái mộng của Tản Đà lại khác, nó mang màu sắc riêng rất Tản Đà.
Mộng
là lối thoát cho tâm hồn mơ mộng và bế tắc của Tản Đà.Nhà thơ yêu mộng, ngất
ngây, đắm chìm trong mộng.Giấc mộng của
Tản Đà mang tính chất lãng mạn thoát ly.Cuộc đời thực không lấy gì làm hạnh
phúc, Tản Đà mong muốn thoát ly bằng mộng, triền miên trong cõi mộng để quên đời.
Khi ông mộng, ông được sống những cuộc đời mới mẻ, đẹp đẽ, tự ông vẽ ra theo
trí tưởng tượng của ông. Chính trong những cuộc đời như vậy mà ông mới tìm lại
được cái tôi của mình, gặp được những người trong ý tưởng và suy nghĩ của mình.
Tản
Đà đã từng muốn làm thằng Cuội lên cung trăng chơi với chị Hằng. Đến “Hầu trời”
thi nhân lại mượn chuyện hầu trời để bộc lộ cái tôi “ngông” của mình:
Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt không mơ mòng
Thật hồn! thật phách! thật thân thể
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.
Lên
trên đó, nhà thơ được dịp khoe hết tài năng của mình. Bởi có lẽ vì người đời
quá khắt khe lại thêm “văn chương hạ giới rẻ như bèo” nên ông mộng được đem văn
lên bán chợ Trời:
Văn đã giàu thay lại lắm lối
Trời
nghe trời cũng bật buồn cười
Chư
tiên ao ước tranh nhau dặn:
“
Anh gánh lên đây bán chợ trời”
(
Hầu trời)
Dư luận của Trời thật rộng rãi, trời đã
khen văn thơ của Tản Đà đây chính là điều mà nhà thơ ao ước bấy lâu nay. Thoát
ly hẳn cuộc sống trần gian, ông tìm đến nơi cõi trời hi vọng sẽ có người hiểu
được thơ ca mình và nhà thơ đã thực hiện được mong ước thoát ly đó. Và phải
chăng khi mộng như vậy, ông lại cảm thấy
tin tưởng, lại tiếp tục sáng tác, để cho đời một sự nghiệp văn chương to lớn.
Hết
mộng lên cõi trời, Tản Đà lại mộng lên cõi tiên. Ông lại mơ ước được như Lưu Thần
– Nguyễn Trệu lên chơi cõi tiên trong bài “ Tống biệt”
Lá đào reo rắc lối Thiên Thai
Suối
tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Nửa
năm tiên cảnh
Một
bước trần ai…
Bài thơ làm theo điệu từ khúc tả cuộc chia
ly giữa hai nàng tiên nữ và Lưu Thần, Nguyễn Triệu lúc hai chàng trở lại trần
gian. Ở đây Tản Đà tưởng tưởng ra bức tranh tiên cảnh thật đẹp nhưng thật quạnh
quẽ, bài thơ mang ý nghĩa tượng trưng giấc mộng không ở mãi với hồn thơ.
Nhưng
xét kĩ, chúng ta thấy rằng trong cái mộng thoát ly của Tản Đà thì có hai thứ mộng.Có thứ mộng do chán đời gây nên, do sự yếm thế của
tác giả trực tiếp lôi cuốn mà đến:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần
thế em nay chán nửa rồi
Cung
quế đã ai ngồi đó chửa
Cành
đa xin chị nhắc lên chơi.
(
Muốn làm thằng Cuội)
Trong cảnh đêm thu Tản Đà cảm thấy buồn
chán cuộc đời. Ông mộng thoát khỏi cuộc đời đầy đổi thay, nhố nhăng. Ông hình
dung ra nơi cung quế và mong ước được lên sống ở đó. Thi sĩ ước muốn được lên
cung trăng, được tâm sự với Hằng Nga rồi “tựa nhau trông xuống thế gian cười”.Đó
quả là một ước muốn thật ngông cuồng, ngạo nghễ.Ông muốn nhìn xuống thế gian,
muốn đứng hơn người để mà trông, mà ngắm, mà suy xét việc đời. Mộng vì chán đời
nhưng có khi vì chịu ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang bao giờ cũng tiềm tàng
trong tâm hồn vô số nhà nho – coi cuộc đời là mộng:
Trăm năm một giấc mơ màng
Nghĩ
chi cho bận gan vàng hỡi ai?
(
Đời lắm việc)
Lại
có thứ mộng Tản Đà bịa đặt ra để làm một trò tiêu khiển. Tản Đà thường cho rằng
đời là buồn tẻ, không có gì đáng lưu luyến, chỉ muốn mộng để giải khuây vì mộng
đẹp hơn thực tế:
Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi
Tỉnh
rồi lại muốn mộng mà chơi
Nghĩ
đời lắm nỗi không bằng mộng
Tiếc
mộng bao nhiêu lại ngán đời.
(
Nhớ mộng )
Giấc
mộng là lối thoát cho tâm hồn mơ mộng và bế tắc của Tản Đà. Điểm nổi bật trong
thơ văn Tản Đà là ở đâu, lúc nào cũng thấy ông nói đến mộng. Nhà thơ yêu mộng,
ngất ngây trong mộng, đắm chìm trong mộng. Nhiều lúc chợt tỉnh giấc, trở về với
thực tại, ông lại thấy chán ngán, lại tiếc nuối với giấc mộng ông xây bằng tưởng
tượng vì thế ông lại ao ước được trở lại cõi mộng, cõi thần tiên:
Trông khắp trần gian hết thú chơi,
Thèm
trông con hạc nó lên trời,
Hạc kia bay bổng tuyệt vời,
Hỏi thăm cung Nguyệt có người trọ
không?
(Trông hạc bay)
Với ông mọi thứ vui trên trần gian đều đã
hết, chơi, say…mãi cũng chán. Thưởng thức những của cải vật lại, Tản Đà cũng đã
từng.Đi khắp đó đây ngắm cảnh đẹp, ông cũng đã trải.Khi đã nắm hết những mùi vị
ngọt ngào cũng như cay đắng của cuộc đời, Tản Đà cảm thấy buồn chán.Ông luôn
mong muốn một cuộc sống mới ở một nơi xa xôi nào đó, phóng khoáng hơn, tự do
hơn.Đó là cuộc sống cách xa trần thế, nơi cung nguyệt. Mộng ước của Tản Đà thật
lãng mạn biết chừng nào!
Tuy
nhiên những giấc mộng ấy thật nhẹ nhàng, chỉ là những mơ tưởng hão huyền, phản
ánh một tâm hồn thoát tục của thi sĩ.Đáng chú ý hơn là những “mộng” có sắp đặt,
ý tứ và hình ảnh bố trí gọn gàng và duyên dáng, không những thỏa mãn được ít
nhiều bao ước vọng của thi sĩ mà còn gây hứng thú cho người đọc. Chẳng hạn như
trong bài “ Hầu trời”, Tản Đà mộng thấy mình một đêm kia lên hầu trời, vừa uống
trà ngon vừa ngâm thơ cho trời và chư tiên nghe, dễ dãi và tự nhiên vì tự cho
mình là một vị tiên bị đày xuống hạ dưới
nay lại trở về trời, đến khi ra về mọi người tiễn đưa nuối tiếc. Trong
cái mộng này ta thấy mọi sự đều sắp đặt để thỏa mãn những ước vọng của Tản Đà:
ước vọng của một người nhiều tình cảm muốn được tình thương trìu mến của người
khác, ước vọng của một kẻ nhiều kiêu hãnh, làm một nhà nho muốn người ta hiểu
cái nhiệm vụ trọng đại của mình… Một cái mộng gây cho thi sĩ nhiều hứng thú như
thế, nên ông rất ưa mộng. Do đó “mộng” chiếm một phần quan trọng trong thơ văn
Tản Đà.Mộng chứng tỏ xu hướng muốn vươn lên cao, nhẹ nhàng, phiêu diêu tìm sự
thỏa thích trong một trạng thái xa lìa thực tế.
Nói
đến cái tôi cá nhân của Tản Đà thì có rất nhiều khía cạnh để chúng ta bàn luận
mà thoát ly cũng là một khía cạnh lớn nói lên tư tưởng của nhà thơ. Thoát ly
không phải là quên hết sự đời chỉ sống với giấc mộng của mình mà thoát ly là
tìm về một nơi mà con người ta có thể thỏa mãn được cái mong ước lớn lao của
mình. Có người vì không thích với cuộc sống hiện tại mà họ muốn thoát ly bằng
cách say men lao vào những cuộc chơi vô bổ, còn với nhà thơ thì khác ông thoát
ly bằng cách tìm vào cõi mộng. Bởi chỉ trong mộng, trong một thế giới không có
thật ấy thì nhà thơ mới có thể tỏ rõ lòng mình, mới phát huy hết tài năng của
mình. Và cũng có thể chỉ những lúc này tài năng của nhà thơ mới được mọi người
để ý và công nhận. Ở đây cái tôi cá nhân
của nhà thơ được trỗi dậy mạnh mẽ và có thể nói cái tôi cảm xúc trữ tình của Tản
Đà được thời đại bắt đầu “cởi trói” đã phơi bày ra một cách mà lâu nay ta quen
gọi là lãng mạn như thế. Ở Việt Nam, do những điều kiện lịch sử của mình mà cái
tôi này chậm phát triển và cái tôi của Tản Đà cũng vậy nhưng đáng quý ở chỗ, dù
cái tôi cảm xúc đó biểu hiện dưới dạng lãng mạn thoát ly nhưng rõ ràng là nó
hoàn toàn không tách khỏi cái ta dân tộc.
Nói đến
cái ngông trong thơ Tản Đà thì không thể không nhắc đến cái tôi hưởng lạc trong
thơ ông.Hưởng lạc là một quan niệm sống, một thái độ sống, một phản ứng của cái
tôi cá nhân độc đáo vì chán đời, vì muốn quay lưng với đời mà tìm đến sự hưởng
lạc. Ta thường thấy, các nhà nho coi cuộc sống nhàn lạc là một thú vui, một
cách sống thanh cao, tao nhã thì đến với Tản Đà ông nêu cao tinh thần hưởng lạc
và sống theo cách riêng của mình. Nguyễn Công Trứ cũng từng quan niệm rằng:
Nhân sinh bất hành lạc
Thiên
tuế diệc vi thương
(Ở
đời không hành lạc
Sống ngàn
năm cũng chết yểu)
(Đánh thức người đời)
(Thơ văn
Nguyễn Công Trứ, Kiều Văn, NXB Đồng Nai, 2000, tr 121)
Ở Tản Đà
cũng vậy, thơ ông là tiếng nói cá nhân mạnh mẽ và đầy cá tính.Ông không bị gò
bó bởi một khuôn phép nào, một lẽ sống nào.Với ông, sống là phải biết hưởng lạc,
vui thú với đời.Dù sống trong cảnh nghèo, cuộc sống khó khăn, thiếu thốn đủ bề
nhưng ông vẫn luôn lạc quan và tận hưởng những gì mà cuộc sống mang lại cho
mình, nghèo thì vẫn có cái thú vui của nghèo. Trong thơ của ông cái tôi hưởng lạc
được thể hiện chủ yếu ở hai khía cạnh đó là say trong men rượu và sự ăn chơi.
Hình như
đối với ông cuộc đời này rượu đem đến cho ông những cái cảm giác tận hưởng, ông
mượn rượu để thỏa niềm hưởng lạc của mình. Như trong bài “Say”ông đã thể hiện cái hưởng lạc trong men say:
Đêm xuân một trận nô cười
Dưới
đèn chẳng biết là người hay hoa
Khi
vui quên cả cái già
Khi
say chẳng dốc giang hà cũng say
(Say)
Một đêm
xuân ấm áp với men rượu nồng, những người bạn nhậu đang nâng chén say sưa, ca
hát và nô đùa bên nhau, còn gì bằng trong ngày xuân ấy, thật sảng khoái biết
bao. Say trong men rượu mọi thứ đều trở nên mơ hồ, dưới ánh đèn mờ kia không
còn nhận ra là người hay hoa nữa, hay dưới cảm nhận của người đang say mọi thứ
đều trở nên đẹp và lung linh, Tản Đà mượn rượu để say, để thỏa niềm vui hưởng lạc
của mình và phải chăng ông mượn rượu để quên đi cái thực tại chán chề kia, khi
vui thì mọi thứ đều có thể quên hết:
Nhãn ngoại trần ai không nhất thế,
Hung
trung khối lũy thuộc tiền sinh
( Ngoài
mắt không biết cõi trần là gì nữa, trong bụng toàn chứa những gì kiếp trước).
Có thể nói khi say thì những thứ ngay thực tại đều tan biến, trong mắt nhà thơ
mọi thứ trong quá khứ hiện về với những gì đẹp và sâu sắc nhất, hơn thế nữa khi
men rượu say vào người làm cho ta cảm giác lâng lâng như được làm thần tiên. Với
ông rượu là phương tiện để đem đến cái hưởng lạc thích thú nhất: “Tử trung ưng
thị thần tiên” (trong lúc uống rượu là lúc làm thần tiên).
Đến với thơ của ông, ta sẽ còn bắt gặp nhiều bài thơ ông mượn rượu để
thỏa niềm hưởng lạc của mình như trong bài “Lại
say”:
Say
sưa thì cũng thói hư đời,
Hư
thời hư vậy, say thời cứ say
Đất
say đất cũng lăn quay
Trời
say mặt cũng đỏ gay, ai cười.
(Lại say)
Tản Đà cũng biết suốt ngày say sưa cũng phải là tốt, cũng là thói hư ở
đời nhưng ở câu tiếp theo ông khẳng định hư thì hư nhưng say thì vẫn cứ say,
cách nói thể hiện cái ngông trong hưởng lạc của ông cũng rất đậm nét, say là
thú vui để được nhàn, để được thoải mái trong tâm hồn ông thì làm sao có thể bỏ
được. Ở đây ông còn liên tưởng đến cả trời đất cũng say, khi say thì đều như
ông, có ai cười đâu thì ông cũng sợ gì tiếng đời chứ, ở đây ông mượn luôn hình ảnh
trời đất để bào chữa cho cái thói hư của mình thật là ngông. Đối với người ta
có khi say có khi tỉnh nhưng với ông hình như lúc nào cũng say, say mãi để tận
hưởng thú vui ở đời:
Say chẳng biết phen này là mấy
Nhìn
non sông chẳng thấy, lại là say.
Quái!
Say sao say mãi thế này?
Say
suốt cả đêm ngày như bất tỉnh.
Ông muốn say để không
can sự đời nữa, không muốn bận tâm những chuyện trong dân gian, phải chăng ông
quá bất mãn với cuộc đời này, thôi thì ai muốn làm gì thì làm, ông cứ say, cứ
say để vui thú chính mình, ngay cả vợ khuyên ngăn ông cũng mặc, cứ say rồi lại
say, say để giải sầu và để tự cho mình niềm vui:
Việc
trần ai, ai tỉnh ai lo
Say
túy lúy nhỏ to đều bất kể
Trời
đất nhỉ, cái say là sướng thê1
Vợ
can chồng, ai dễ đã chừa ngay?
Muốn
say lại cứ mà say.
Không phải chỉ say trong men rượu mà trong lúc say ấy ông làm thơ, đọc
thơ thể hiện tài năng của mình, một cách chứng tỏ bãn lĩnh của ông, ông tìm thấy
niềm vui, hạnh phúc ở trong đó, cuộc đời của ông thơ và rượu như hai người bạn
tâm giao không thể thiếu, và đó còn chính là phương tiện để ông đến được với
cái vui, cái hưởng lạc ở đời này, điều đó được thể hiện rõ nét qua bài “ Ngày xuân thơ rượu”:
Trời đất sinh ta rượu với thơ
Không
thơ không rượu sống như thừa
…
Còn
thơ còn rượu còn xuân mãi
Còn
mãi xuân, còn rượu với thơ
(Ngày
xuân thơ rượu)
Ở hai câu cuối ông đã khẳng định một điều, còn thơ và rượu thì cuộc đời
này với ông mới còn mùa xuân, mới còn niềm vui và thích thú, còn mùa xuân, còn
cuộc đời này thì thơ và rượu luôn gắn bó với ông. Có thể nói Tản Đà rất ngông
ngay cả trong niềm vui hưởng lạc, vui trong cơn say, tận hưởng niềm vui trong
chính tài năng và bản lĩnh của mình. Cái ngông có ý thức, có năng lực chứ không
phải là sự ba hoa, múa mép.
Đến với sự hưởng lạc của ông, ta còn bắt gặp qua những vần thơ thể hiện
sự ăn chơi, một sự ăn chơi ngông đến lạ thường. Ông đi khắp mọi nơi, từ nơi này
sang nơi khác, từ vùng nọ tới vùng kia trong đất nước, ông đi đây đi đó để thể
hiện sự ăn chơi của mình, để tìm đến những cái vui trong thiên hạ và điều đó được
thể hiện rất ấn tượng qua bài” thú ăn chơi” của ông:
Giời sinh ra bác Tản Đà
Quê
hương thời có, cửa nhà thời không
Nửa
đời Nam, Bắc, Tây, Đông
Bạn
bè sum họp, vợ chồng biệt ly
Túi
thơ đeo khắp ba kỳ
Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió giăng
Hành trang lên đường của
ông là túi thơ, ông đi khắp ba kỳ đất nước, tham quan và biết rõ đặc tính của từng
vùng miền, ông cho rằng thú chơi của mình ở thế gian khó ai bằng được:” Thú ăn
chơi cũng gọi rằng. Mà xem ai chửa dễ bằng thế gian”. Qua bài thơ ta có thể thấy
ông đã đi khắp mọi nơi như Tu Ran, Long Xuyên, Nghệ An, Sài Gòn, …, hầu như khắp
các địa danh trong nước, đúng là sự ăn chơi của ông thật đáng nể và ngưỡng mộ:
Hà tươi cửa biển Tu Ran
Long
Xuyên chén mắm, Nghệ An chén cà
Sài
Gòn nhớ vị cá tra
Cái
xe song mã, chén trà Nhất Thiên
Đa
tình con mắt Phú Yên
Hữu
tình rau bí ông quyền Thuận An
Đi khắp mọi nơi, được biết
mọi thứ, những món ngon ở đời thì đó là niềm vui hưởng lạc mà ông mong muốn,
ông không muốn sống bó buộc trong sự nhàm chán, để rồi phải chứng kiến những
chuyện không vui ở đời, ông muốn tìm cho mình sự thoải mái trong tâm hồn nhưng
ông không sống ẩn dật, nhàn hạ như nhưng người khác, đó là điểm nổi bật trong
tính cách của ông và hơn thế nữa ông đã khẳng định sự ăn chơi của mình là mãi
mãi, chuyện đời thế nào cũng mặc, rất ngông ngay cả trong việc ăn chơi:
Trăm năm hai chữ Tản Đà
Còn
sông, còn núi, còn là ăn chơi
Dở hay muôn sự ở đời
Mây
bay nước chấy mặc người thế gian.
Một lần nữa ông khẳng định
sự ăn chơi, hưởng lạc của mình qua bài thơ “Còn chơi” của ông:
Ai đã
hay đâu tớ chán đời
Đời
chưa chán tớ, tớ còn chơi
Chơi
cho thật chán, cho đời chán
Đời chán nhau thời tớ sẽ thôi
Nói
thế can gì tớ đã thôi
Đời
đương có tớ, tớ còn chơi
Người
ta chơi đã già đời cả
Như
tớ năm nay mới nửa đời.
Với ông cuộc đời này là
để ông chơi, chơi để mang đến niềm vui, mang đến tiếng cười sảng khoái cho
riêng mình, chơi để mà hưởng lạc, chơi cho đến khi nào cuôc đời này chán ông
thì thôi, nhưng qua câu thơ ông viết ta cảm nhận được rằng đó như một lời khẳng
định vĩnh cữu về cuộc chơi của ông, đời làm sao mà chán ông được, cuộc đời
không bao giờ mất, chỉ sợ ông đi trước cuộc đời mà thôi:” Đời chưa chán tớ, tớ
còn chơi”. Đối với ông người ta chơi cả cuộc đời, còn ông thì mới nửa đời mà
thôi, thì làm sao không chơi được, ông chơi cho sướng cuộc đời, nhưng ông chơi
bằng chính tài năng của mình, bằng những bài thơ văn ông viết:
Nửa đời chín độ tớ đương chơi
Chơi
muốn sao cho thật sướng đời
Đời
người ai có chơi như tớ
Chơi
cứ bằng văn mãi chửa thôi.
Hơn thế nữa ông dám nói đời
vắng ông rất nhớ nên ông quay lại với đời để chơi:” Vắng tớ bấy lâu đời nhớ tớ.
Nhớ đời nên tớ vội ra chơi.” Cuộc đời là người bạn để ông chơi, một người bạn
tâm giao tri kỉ mà không ai có thể thay thế được, ông cho rằng chỉ cuộc đời mới
có thể làm ban, mới có thể cùng chơi với ông được, trong bài thơ cụm từ tớ còn
chơi được lặp đi lặp lại nhiều lần khẳng định sự vui chơi, hưởng lạc bất tận của
nhà thơ. Chúng ta còn có thể thấy sự vui chơi, hưởng lạc của ông qua một số bài
thơ như “chơi trại Hàng Hoa”, ông đi ngắm cảnh đẹp, thả hồn theo những dòng hồi
tưởng xa xưa, để giải buồn, để quên hết những gì không vui, ở đây muôn vàn cây
cỏ xanh tốt, có bách thú, có dòng người tấp nập, thật đẹp và vui biết bao, là một
điều lí tưởng để quên hết những cái không vui:”Có dịp đi chơi buồn giải buồn…”.
Hay trong bài thơ chơi chùa Hương Tích, ông đã đi tìm những nơi vui vẻ giờ đây
là yên tĩnh, để lắng đọng trong ông sự nhẹ nhàng, thanh thoát, một chốn bình
yên mà ở phàm trần không có được:” Chốn ấy muôn chơi còn mỏi gối. Phàm trần
chưa biết nhắn nhe nhe cho”.
Qua những
bài thơ của ông ta có thể cảm nhận rằng dù trong cuộc sống nghèo khổ nhưng ông
đã cố thoát ra khỏi cái thực tại ấy để đến với những niềm vui, hưởng lạc của
mình nhưng ông cũng thật đặc biệt khi cái cách hưởng lạc của ông cũng rất khác
người, rất ngông, tìm đến niềm vui hưởng lạc trong những cuộc say, trong văn
chương, trong tài năng của mình để thỏa
cái tôi hưởng lạc đó. Chính vì vậy đã tạo ra một ấn tượng, một nét rất mới trong
ông.
Trần
Đình Hượu gọi đa tình là “một cái tật dễ thương” mà bất kì một người tài tử nào
cũng mắc phải, bởi có tài ắt sẽ có tật, Tản Đà cũng không nằm ngoài “cái tật” ấy.
“Đa
tình” không có nghĩa là đam mê sắc đẹp, mà là dễ xúc động, nhiều tình cảm.
Nhưng cũng bởi dễ xúc động và nhiều tình cảm nên họ dễ bị cuốn theo sắc đẹp và
những số phận éo le của những con người tài sắc. Tình thường đi liền với “dục”,
tức là những ham muốn, những say mê và từ những ham muốn, say mê ấy thường dẫn
dắt, che lấp làm thui chột cái “tính”, cái “tâm”đạo lí trời cho có sẵn trong mỗi
con người. “Tình” làm con người ta đi trệch ta khỏi những lẽ thường, trệch ra
khỏi khuôn khổ của lễ giáo.Cũng chính vì vậy mà Nho giáo không chấp nhận và đồng
tình.Các nhà Nho thường tỏ ra nghi ngại trước tình yêu, đặt ra nhiều lễ tiết,
lo nghĩ, phòng phạm cẩn thận nhất. Và sắc đẹp, đối với họ là thứ của “làm mất
nước tan nhà” hay như câu “hồng nhan họa thủy” là vậy.
Nhưng
Tản Đà là nhà nho tài tử, tự coi mình là người có tài và đa tình. Khi nhìn vào ảnh
mình, ông đã tự trào một cách hết sức duyên dáng:
Người đâu cũng giống đa tình,
Tưởng
là ai, lại là mình với ta.
Cái
tình của ông là thứ tình yêu đặc biệt, đậm đà, lai láng, không bờ không bến, có
sức lan tràn, cần phải san sẻ. Đến nỗi, hết gửi thư tình cho người tình nhân có
quen biết đến đưa thư cho người tình nhân không quen biết (Khối tình con, quyển
2, trang 56, 57):
Ngồi buồn lấy giấy viết thư chơi
Viết
bức thư này gửi đến ai
Non
nước xa khơi, tình bỡ ngỡ
Ai
tri âm đó, nhận mà coi…
Rồi
đến: “thư tình trách người tình nhân không quen biết” (Tản Đà vận văn, tập 1,
trang 91)
Ngồi buồn ta lại viết thư chơi
Viết
bức thư này gửi trách ai
Non
nước bấy lâu lòng tưởng nhớ
Mà
ai tri kỉ vắng tăm hơi
Hay:
Ngồi buồn ta lại viết thư chơi
Viết
bức thư này gửi trách ai
Ai
những nhớ ai, ai chẳng nhớ
Để
ai luống những nhớ ai hoài
(Trách
người bạn tình vu vơ, Tản Đà vận văn, tập 1, trang 93)
Tản
Đà là người đa tình nhưng lại không có may mắn gặp được giai nhân. Những thứ
không thể thỏa mãn được trong thực tế lại khúc xạ vào trong văn chương thành những
giấc mộng yêu đương, thành những khối tình tha thiết. Khao khát yêu đương, muốn
có một bạn tình để chia sẻ trong ông nhiều khi nó gần như trở thành một căn bệnh,
làm ông âu sầu đau đớn, thế nhưng nỗi đau ấy được ông thể hiện hết sức kín đáo
và không ầm ĩ, một cách thể hiện đậm chất phương Đông:
Quái lạ vì sao cứ nhớ nhau?
Nhớ
nhau đằng đẵng suốt đêm thâu
Bốn
phương mây nước người muôn ngả
Hai
chữ tương tư một gánh sầu”
Không
thể gặp được người giai nhân trong cuộc đời thực, ông tìm tới những giai nhân
đã thành thiên cổ như: Ngu Cơ, Dương Quý Phi, Tây Thi, Hằng Nga,… Trong “giấc mộng con”, Nguyễn Khắc Hiếu yêu
Chu Kiều Oanh như một người đàn bà đẹp, có tài, có đức; thổ lộ với Chu Kiều
Oanh những tâm sự của mình như với một người tri kỉ, bình đẳng hoàn toàn với
mình. Nàng Vân Anh trong “Thề non nước” chỉ mới là “tương đắc” với Tản Đà, Chu
Kiều Oanh mới là người yêu lí tưởng. Đó là nét mới trong quan niệm về người
yêu.Người đàn bà lí tưởng đối với Tản Đà không phải chỉ là mĩ nhân mà còn phải
là giai nhân.“Mỹ nhân khác giai nhân ở đức.Người
đàn bà đẹp thì các chỗ phồn hoa, nơi phú quý có lấy gì làm thiếu”.Nhưng
tiêu chuẩn về đức của ông cũng rộng rãi, không khắt khe như tiết, nghĩa hay
công, dung, ngôn, hạnh trước đây, nên cả Ngu Cơ, Trác Văn Quân cũng trúng tuyển.
Lại
nói tới Tản Đà và Chu Kiều Oanh, tình cảm của họ chỉ dừng lại ở mức trên tình
tri kỉ một chút, giống như yêu nhưng lại giống như bạn.Chỉ dừng lại ở mức chia
sẻ, cảm mến, dừng lại ở chỗ “tương kính, tương thân”. Tản Đà hay nói về tình
yêu, đem bản thân ra làm nhân vật si tình, bộc lộ những khát khao, say mê của
tình yêu. Lòng yêu của ông lại càng thổn thức hơn trong những ngày xuân tươi thắm:
Trách cái tầm xuân nhả mối tơ
Làm
cho bối rối mối tương tư
Sương
mù mặt đất người theo mộng
Nhạn
lảng chân giời kẻ đợi thư
Nghìn
dặm dám quên tình lúc ấy
Trăm
năm còn nhớ chuyện ngày xưa
Tương
tư một mối hai người biết
Ai
đọc thơ này đã biết chưa?
(Tản
Đà vận văn, quyển 3, trang 26)
Cái
đa tình của Tản Đà không chỉ dành cho những người tình của mình mà còn dành cho
những người phụ nữ chưa chồng hoặc có chồng mà không được ở gần nhau:
Đêm thu gió lọt song đào
Chồng
ai xa vắng, gió vào chi đây
(Khối
tình con 1, trang 31)
Hay
khuyên những người con gái khi còn trẻ thì nên đi lấy chồng, đừng để đến khi má
đào tàn phai:
Người ta có vợ có chồng
Em
như con sáo trong lồng kêu mai
Má
đào gìn giữ cho ai
Răng
đen, đen quá cho hoài luống công
(Khối
tình con 1, trang 33)
Thế
nhưng khi tưởng tượng tới cảnh biệt li, thân gái dặm trường thì lại ngậm ngùi,
có ý ghen tuông:
Ai đi đường ấy cùng mình
Mình
đi để lại gánh tình ngổn ngang…
(Khối
tình con 1, trang 36)
Bềnh bồng mặt nước chân mây
Đêm
đêm sương tuyết, ngày ngày nắng mưa
Ấy
ai bến đợi sông chờ,
Tình
kia sao khép lững lờ với duyên?
(Khối
tình con 2, trang 24)
Những
tình cảm, sự đa tình của Tản Đà cuối cùng cũng chỉ là sự thương hoài nhớ hão
nên kết quả vẫn là sự thất vọng, đành một mình ôm nỗi nhớ thương:
Nước non vắng khách hữu tình
Non
xanh nước biếc cho mình nhớ ai”
(Tản
Đà vận văn, quyển 3, trang 65)
Trong
tình yêu, Tản Đà vẫn thể hiện được một cái tôi rất ngông, rất khác người.Ông
không tìm lí tưởng tình yêu ở thực tại, ở cõi trần mà luôn có xu hướng thoát
lên tiên, vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của cuộc sống để khẳng định cái tôi của
mình. Ông từng lên trời xin cưới Hằng Nga để rồi bị trời mắng:
Cớ sao suồng
sã dám đưa thơ?
Chốn Thiên
cung ai kén rể bao giờ,
Chỉ những
sự vẩn vơ mà giấy má!
(Trời
mắng)
Nếu
không thể lên tiên, ông lại bộc bạch tâm sự bằng cách viết thư cho tình nhân bằng
một tình cảm hết sức mãnh liệt. Người tình dù là quen biết hay không quen biết
thì ông cũng luôn tâm tình bằng tất cả nỗi lòng, bằng một khát khao cháy bỏng
và có phần rất ngông.
Như vậy, ta có thể khẳng định, cái tôi đa
tình của Tản Đà là một cái tôi mãnh liệt, một cái tôi ngạo đời, ngông với đời,
dám bày tỏ nỗi tâm tình sâu kín nhất của mình. Tản Đà cũng tự nhận mình là người
đa tình, đó là sự ý thức cao độ về tình cảm, tình yêu mà không phải ai cũng nói
lên được.
Nói
về công danh, sự nghiệp, không ít lần Tản Đà khẳng định cái chí khí của phận
làm trai. Với ông, nam nhi đứng trong trời đất phải đứng ra gánh vác việc đời,
phải làm sao cho xứng đáng là bậc anh hào:
Thân nam tử đứng trong trần thế.
Cuộc
trăm năm có dễ ru mà
Có đời mà đã có ta,
Sao cho thân thế không là cỏ cây.
(Đêm
đông hoài cảm)
Ông
cho rằng một khi đã sinh ra trên đời thì phải sống sao cho hơn đời, khác đời để
không dễ úa tàn như cỏ cây.Những câu thơ như lời khẳng định đầy dứt khoát, thể
hiện được một cá tính thật mạnh mẽ của người trai trong xã hội. Ông cũng coi phận
nam nhi trước hết phải trả được cái nợ tang bồng vì đó là ý chí phấn đấu, là bổn
phận và trách nhiệm của người làm trai.
Phận nam nhi tang bồng là chí,
Chữ
“trượng phu” ý khí nhường ai,
Non sông thề với hai vai,
Quyết đem bút sắt mà mài lòng son.
(Xuân
sầu)
Quan
niệm về chí làm trai đã minh chứng cho một cá tính độc đáo của Tản Đà.Thi sĩ
không chỉ nói về bổn phận của “thân nam tử” mà là đang tự nói với chính mình, tự
hứa với lòng mình. Không phải ai cũng có dũng khí dám đưa tay, ngẩng mặt lên trời
mà thề với non sông, đất nước. Ta như thấy được một dáng vẻ hiên ngang nếu
không nói là ngang tàng của thi nhân giữa trời đất. Đó là thái độ coi trọng bản
thân mình, là nhu cầu phơi trải lòng mình một cách nhiệt thành nhất. Vì luôn trọng
chí khí, trách nhiệm mà Tản Đà cho rằng những người thất thế trong cuộc đời
không phải là những người tầm thường mà chỉ là: “Tài cao, phận thấp, chí khí uất”
(Thăm mả cũ bên đường). Ông không ngần ngại đề cao cái tôi cá nhân của mình, khẳng
định tài năng và chí khí của phận người trai trong xã hội. Có thể vì do sự kìm
kẹp của xã hội mà cái chí ấy bị che lấp đi, bị vùi dập đi, là một khí khí uất
nhưng có thể vùng dậy bất cứ lúc nào.
Có
khi, ông phê phán một cách thẳng thắn những kẻ yếu hèn, chịu luồn cúi, không có
cái dáng vẻ thanh cao, ngang tàng của bậc trượng phu. Không những lên tiếng chỉ
trích, ông còn thể hiện được nỗi sầu vô hạn của mình trước một hiện tượng xã hội
nhức nhối, đau lòng của đất nước trong thời loạn lạc:
Chắp tay rồi lại cúi đầu
Nghĩ cơn sầu ấy
ai sầu chăng ai!
Thế
mà cũng kiếp làm trai
Con Hồng cháu
Lạc cũng nòi giống ta.
(Trai
thời loạn)
Cái
dáng vẻ đớn hèn ấy thật đáng xấu hổ. Tản Đà mỉa mai, châm biếm sâu say và còn
khinh thường những kẻ chịu nỗi nhục chắp tay, cúi đầu. Đã không còn vẻ hiên
ngang, phi thường mà thay vào đó là sự sợ sệt, run rẩy. Tản Đà không hề giấu giếm
cũng chẳng hề nói giảm nói tránh mà ông ném thẳng vào mặt những kẻ ấy ánh mắt
coi thường cùng sự giận dữ tột độ.Chính điều này cũng nói lên được tính cách
ngang tàng, phóng túng của ông.
Cái
ngông ở đây được nói đến còn là cái ngông của một con người tài năng, hiểu đời,
hiểu mình, bản lĩnh tự tin để khẳng định cái tài năng đó với cuộc sống trần thế.
Tản Đà là nhà thơ sinh ra vào thời mà cái mới bắt đầu nảy sinh nhưng cái phong
kiến cổ truyền còn rất nghiêm khắc cho nên cái ngông không đúng lúc sẽ bị coi
như là quá tự đắc về mình nhưng với cái ngông rất lạ và rất riêng Tản Đà lại được
người đời chấp nhận và đề cao. Trong bài thơ “ Hầu trời” lấy lí do đi hầu trời
nhưng thực chất đó là cái cớ để Tản Đà khẳng định tài năng bản thân và bộc lộ
quan điểm mới mẻ của ông về nghề viết văn, qua đó thấy được cái cái tôi đầy cá
tính và bản lĩnh mà ta không nhầm lẫn với bất kỳ nhà thơ nào khác- đó là một kiểu
ngông rất mới và độc đáo của một nhà nho đang sống ở thời kì mà ý thức cá nhân
bắt đầu được trân trọng và khẳng định.
Như
lời Tản Đà giới thiệu, lý do ông được lên chốn thần tiên là vì tài năng, tiếng
ngâm của ông vang cả dòng sông “ Ngân Hà”
rộng lớn và bao la, tiếng ngâm không chỉ dừng lại tại con sông vũ trụ ấy
mà còn vọng vào chốn thiên cung làm Trời kia phải mất ngủ
_Trời
nghe hạ giới ai ngâm nga
Tiếng
ngâm vang cả sông Ngân Hà
Làm trời mất ngủ, Trời đương mắng
Có
hay lên đọc, Trời nghe qua
Đó
là một sự tượng tưởng nhưng trên cái nền tượng tưởng đó Tản Đà thể hiện thật những
suy nghĩ, quan điểm về cái tôi của mình.Ông muốn không chỉ thế gian thấy được
tài năng ấy mà ngay cả trời cao vờn vợn nghe danh và mời lên thể hiện.Lên trời
để nhà thơ tự giới thiệu về mình, giới thiệu đầy đủ tên tuổi, quê hương, đất nước,
nghề nghiệp và các tác phẩm sắp in và hơn nữa là khẳng định tài năng của mình.
Hơn ai hết Tản Đà hiểu được cái may mắn
hiếm có khi được lên trời, nên ông không ngần ngại kể hết những tài năng văn
chương của mình một cách rất tự tin:
Dạ
bẩm lạy trời con xin đọc
Đọc
hết văn vần sang văn xuôi
Hết
văn thuyết lí lại văn chơi
Đương
con đắc ý đọc đã thích
Chè
trời nhấp giọng càng tốt hơn
Đó
lài cái ý thức về tài năng của mình_ tài đọc giỏi, tài hiểu biết rộng, đọc nhiều
“ văn vần, văn xuôi, văn thuyết lí, văn chơi”. Cái đắc ý có được vì ông nhận thấy
mình thật sự tài giỏi, tự tin cất giọng một cách hiên ngang, dõng dạt càng về
sau càng trở nên cao hứng đọc hết loại này rồi đến loại khác trước mặt Trời và
các Chư hầu. Cái ngông của ông bắt nguồn từ cái tôi vì cái tôi hiểu rất rõ bản
thân mình tài giỏi, tài giỏi mới được lên chốn thiên đường ( cái chốn mà mấy
người hạ giới được lên) và lên đó không nhằm mục đích du ngoại mà để thể hiện
cái tài năng hơn người đó.
Sẵn
đây Tản Đà giới thiệu luôn
Bẩm
con không dám man cửa Trời
Những áng văn con in cả rồi
Hai
quyển Khối tình văn thuyết lí
Hai
Khối tình con là văn chơi
Thần
tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài
gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển
Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến
quyển Lên tám nay là mười
Nhờ
Trời văn con còn bán được
Chửa
biết con in ra mấy mươi?
Tản Đà kể những tác phẩm sắp in
thành sách, qua đó Tản Đà muốn khoe với Trời về khả năng sáng tác thiên bẩm của
mình , ta thấy sáng tác của ông gồm có “ áng văn, văn thuyết lí, văn chơi, văn
tiểu thuyết, văn vị đời, văn dịch.”
Đọc
thơ của ông ngay cả Trời cũng mê say, thích thú, tán thưởng:
Văn
dài hơi tốt ran cung mây
Trời
nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Tâm
như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng
Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song
Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc
xong một bài cùng vỗ tay.
Lời
của Trời khen cũng chính là ông đang tự khen mình, ông nhận thấy tài năng văn
thơ của mình quá hay đến nỗi lên đến mấy tầng mây. Ngay cả Trời_ người nắm giữ
quy luật của tạo hóa, cái tiêu chuẩn nhận xét, đánh giá về cái hay cái đẹp chắc
chắn sẽ rất cao khác hẳn với người trần thế , thế nhưng khi nghe Nguyễn Khắc Hiếu
đọc thơ lại khiến Trời cũng lấy làm hay. Còn Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày của
rồi Song Thành, Tiểu Ngọc dường như không chú ý việc gì ngoài việc lắng nghe, đọc
hết một bài tất cả đều vỗ tay. Hành động vỗ tay
cho ta thấy Tản Đà rất có ý thức trong việc coi trọng giá trị tài năng của
mình và hơn tài năng của ông đã được thực sự công nhận thành những giá trị. Văn
dở, thơ nhàm thì làm sao thu hút được người nghe huống gì đây là cửa trời. Cái
tôi trong việc thể hiện tài năng càng trở nên ngông hơn sau nhận được sự cổ vũ,
nghe qua lời nhận xét của Trời thể hiện sự đánh giá tài năng văn thơ của
mình
Trời
lại phê cho: Văn thật tuyệt!
Văn
trần được thế chắc có ít
Nhời
văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí
văn hung mạnh như mây chuyển!
Êm
như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm
như mưa sa, lạnh như tuyết!
Có
nhà thơ nào lại dám tự tin nói về cái hay, cái đẹp của thơ mình như thế , lúc
này cái tôi về tài năng của Tản Đà trỗi dậy mạnh nhất bởi Văn phong của ông được
so sánh bằng những sự vật tinh túy, đẹp đẽ nhất trong trời đất, lời văn trau chuốt
sáng đẹp như sao băng, khí văn có lúc hùng mạnh nhanh như mây chuyển nhưng cũng
có lúc nhẹ nhàng dịu êm như làn gió thoảng, tinh tế trong ngôn từ như làn sương
sớm ban mai… văn thơ như thế quả thật như Trời nói “ trần gian chắc có ít” bởi
nó hội tụ đầy đủ tất cả cái hay, cái đẹp, cái độc đáo mà người thường khó có được. Ông rất tự tin
trong việc đưa ra lời nhận xét về chính bài thơ của mình_cái ngông về bản thân
càng trở nên cao hơn và cũng bạo mạnh hơn. Tản Đà yêu thơ văn đem hết tình cảm
vào cộng với tài năng thiên bẩm của mình
tạo nên giá trị đặc biệt đa dạng về thể loại và giọng điệu.
Cái
tôi của ông còn được biểu hiện qua việc ông luôn chuyên tâm sáng tác. Cái tôi
càng trở nên quyết liệt khi Tản Đà khẳng định là nhà thơ chuyên nghiệp trong nền
văn học Việt Nam bởi chính ông là người đầu tiên lấy công việc sáng tác thơ làm
nghề chính “ mang văn chương ra bán phố phường”, ông chỉ sáng tác chứ không làm
bất cứ một ngành nào khác, nhận thức được điều đó nên ông luôn luôn khát khao
phấn đấu vươn đến những gì đẹp nhất vào trong những vần thơ.
Cái ngang tàng về tài năng của mình còn trở
nên ngông hơn khi ông muốn gánh áng thơ văn lên chợ Trời bán nhằm để cho tất cả
mọi người trên cung đình biết đến thơ văn của ông :
Chư
tiên ao ước tranh nhau dặn
Anh
gánh lên đây bán chợ Trời!
Có
quá ngông cuồng không? nhưng chắc có lẽ tài năng của Tản Đà con người trần thế chưa thật sự hiểu hết nội
dung và giá trị của nó nên ông khát khao,
muốn làm tất cả mọi việc cốt để làm sao cho người ta thấy được. Và theo
suy nghĩ của Tản Đà chỉ có Trời, Tiên mới hiểu hết cái hay, cái đẹp của thơ
ông. Cái tôi, cái ý thức tài năng cần được biết đến và trân trọng lúc này trỗi
dậy vô cùng mạnh mẽ và có phần táo bạo.
Nhà
thơ đã hiên ngang khẳng định cái Tôi của mình, gắn liền với tên tuổi thật, quê
quán, nghề nghiệp.Đó là cái ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định
tài năng của mình. Ta nhìn lại trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ
quyền bởi bọn thực dân, con người ngày càng rơi tiền tài và chạy theo vật chất
, Tản Đà tự giới thiệu về bản thân đó như là một cách biểu hiện của sự tự hào về
dân tộc của mình.
Dạ,
bẩm lạy Trời con xin thưa
Con
tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê
ở Á Châu và Địa cầu
Sông
Đà núi Tản nước Nam Việt.
Cái
ngông còn được thể hiện khi Tản Đà tự nhận mình là người trời lo việc thiên
lương của nhân loại:
Hai
chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ
Dám
xin không phụ Trời trông mong
Lúc
này cái tôi ý thức về nhân cách của mình là rất lớn, tự nhận mình là người đem
thiên lương đến trần thế để cải thiện cái xã hội đầy rẫy những bất công thối
nát, chạy theo giàu sang danh lợi của bạc tiền mà cái tài, cái đẹp đã hoàn toàn
bị nó và lu mờ và dần dần trở nên bị vùi
lấp đi. Phải chăng ông muốn làm một sứ mệnh cao cả, để rồi ông lại chìm vào
trong cõi mộng ảo với đời… nhưng cái mộng của ông là cái mộng tích cực, cái tôi
của ông là cái tôi chìm vào cõi mộng như thể hiện sâu sắc tư tương lắm lúc nó
ngông đến lạ thường.
Cái
tôi càng thể hiện rõ hơn khi chính ông thừa nhận mình là người có tính ngông
Bẩm
quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày
xuống hạ giới vì tội ngông.
Tản
Đà khẳng định lần nữa phong cách cái tôi của mình, cái tôi không bằng lòng trước
thời cuộc, cái tôi chán ghét những bất công nơi trần thế .
Như vậy, cái nền tảng tạo nên cái ngông
chính là do ý thức cá nhân. Và Tản Đà cũng như thế cái tôi cá tính bản lĩnh, muốn
chứng tỏ tài năng giữa thực tế phụ phàng đã đưa ông thoát ly đến một cõi mộng để
cái ngông đó được thể hiện mình và khẳng định mình.
Không
những ý thức về tài năng, sự nghiệp của mình, Tản Đà còn bộc lộ cái ngông thông
qua việc khẳng định một cách mạnh mẽ giá trị bản thân.Cái ngông ở đây được nói
đến là cái ngông dựa trên khả năng mà mình có, nghĩa là chỉ những người tài mới
đủ tự tin với cái tài năng vốn có của mình. Tự tin để khẳng định với đời mới là
cái ngông được người đời chấp nhận và tôn trọng.
Có
thể nói Tản Đà là một trong những nhà thơ, nhà văn mở đầu cho phong cách đem
cái tôi, cái bản ngã cá nhân vào thơ văn.
Sông Đà núi Tản đúc nên
ai
Trần thế xưa nay được mấy
người
Trung hiếu vẹn tròn hai
khối ngọc
Thanh cao phô trắng một
cành mai
Bạc tiền gió thoảng: thơ đầy túi
Danh lợi bèo trôi : rượu
nặng vai
Giáp Tuất giời sai tiên
nữ xuống
Thiên thu đặc cách cái
xuân dài
Trong
bài thơ “Tự vịnh” ông mượn hình ảnh của sông Đà, núi Tản để giới thiệu tên
mình, điều này cho thấy rằng ông ví mình có tầm vóc ngang hàng với sông núi,
ông nhận thức được giá trị của mình trong cuộc sống, trong xã hội. Mỗi vần thơ
của ông là sự tự trào về phẩm chất và tài năng của mình.
Trần thế xưa nay được mấy người
Ông
coi mình là một trong những người “hiếm” trong xã hội trước cũng như xã hội lúc
bấy giờ.Đức tính “trung hiếu và thanh cao” ông đều có, điều đặc biệt là ông rất
coi thường bạc tiền và danh lợi.Ông coi bạc tiền chỉ là “gió thoảng” và danh lợi
chỉ là “bèo trôi”. Thời buổi nửa phong kiến lúc bấy giờ đồng tiền chi phối cuộc
sống của con người nhưng ông lại coi thường cả danh lợi và bac tiền- đó là cái
ngông của ông, ông khác người ở điều đó. Cái thời buổi người ta coi bạc tiền và
danh lợi là vạn năng và có thể luồn lách, hạ nhục mình bằng mọi cách để có thể
có những thứ đó.Nhưng Tản Đà, ông đặt giá trị của bản thân mình lên hàng đầu.Ông
coi trung hiếu và thanh cao mới là ngọc ngà, là những điều đáng quý và bản thân
ông đã có được phẩm chất đó.
Vùng
đất Sơn Tây nảy một ông
Tuổi
chửa bao nhiêu văn rất hùng
Sông
Đà núi Tản ai hun đúc
Bút
thánh câu thần sớm vãi vung
Chữ
chữ nôm nôm nào kém cạnh
Khuyên khuyên điểm điểm có hay không
Bởi ông hay quá ông không đỗ
Không
đỗ ông càng tốt bộ ngông.
(Tự trào)
Trong
bài thơ “Tự trào” ông lấy vùng đất Sơn Tây để
nói đến cái vùng đấtã sinh thành ra mình. Cụm từ “nảy một ông” để nói rằng ông không phải là một
người bình thường, mà là một bậc anh tài được trời đất ban tặng cho đời.
Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng
Là
một người tài giỏi, Tản Đà từ nhỏ đã tiếp xúc với Nho giáo. Theo hồi kí trong một
bài thơ thì năm tuổi ông đã học ‘Tam tự kinh’, năm 6 tuổi ông đã học Luận ngữ,
kinh, truyện và chữ quốc ngữ. Năm 10 tuổi ông đã biết làm câu đối, 11 tuổi biết
làm thơ văn. Ông rất thích được làm văn, được anh trai hết lòng chỉ dẫn nên năm
14 tuổi ông đã thạo hết các lối tứ, chương, thi, phú.Năm 15 tuổi ông đã nổi tiến
là thần đòng của tỉnh Sơn Tây.Phải nói rằng ông là một người tài năng và cái
tài năng đó đã được bộc lộ từ nhỏ.
Bút
thánh câu thần sớm vãi vung
Chữ
chữ nôm nôm nào kém cạnh.
Ông
đã “ngông” với đời và coi những câu văn, nét bút của mình là của thần của
thánh, những gì ông biết, ông viết ra không thua kém ai hết.
Bởi ông hay quá ông không đỗ
Không
đỗ ông càng tốt bộ ngông.
Cái
tôi cá nhân của ông được thể hiện rõ trong hai câu thơ cuối, ông tự xưng “ông”.
Đưa ra một lí do rất lạ đời cho việc thi trượt của mình đó là “hay quá nên
không đỗ”, khi đọc thì ta thấy rất mâu thuẫn nhưng điều này lại phần nào đúng với
thực tế lúc bấy giờ. Trong thời đại lúc bấy giờ thì đồng tiền là vạn năng và
tài năng chỉ là thứ yếu, người học giỏi
thông thái chưa chắc đã đỗ đạt và làm quan to, tước lớn, kẻ hèn mọn, ngu si thì
lại làm ông to, bà lớn bởi có tiền thì sẽ mua được danh lợi.
Hai
câu thơ cuối của bài “Tự trào” có thể
nói rằng là thời điểm cái “trào”
của Tản Đà lên tới đỉnh điểm. Chỉ gỏn gọn trong một chữ “hay” đã cho ta thấy rằng
cái ý thức của ông về giá trị của bản thân mình rất cao và điều này rất đáng được
tôn trọng và đáng để bàn luận. Ông biết được bản thân mình có những cái gì và
không có cái gì.Ông có tài nhưng ông không có tiền, danh lợi và cái tài đó là
chất liệu tất yếu để ông xây dựng nên cái ngông cho mình.
Không
đỗ ông càng tốt bộ ngông
Tản
Đà rất khác người, nếu những sĩ tử khi đi thi chỉ mang một mong ước là đỗ đạt
đr vinh quy bái tổ thì với ông điều đó không cần thiết . Những gì ông làm mà
không thành, tài năng của ông có mà người đời không nhìn thấy được thì càng tốt,
điều đó càng thúc đẩy cho cái “ngông” của ông cao hơn, ngạo nghễ hơn.
Hầu
hết trong các sáng tác của ông đều có cái “ngông” ngạo nghễ đó và ông luôn ý thức
được giá trị của bản thân trong mỗi vần thơ.
Thân
tớ ví to bằng quả đất
Cũng
cho thiên địa có đêm ngày.
Ở
bài “Kiếp con quay” ông đã ví mình to bằng quả đất, ông coi mình là trung tâm của
vũ trụ và có giá trị rất lớn đối với cuộc sống.Tản Đà có khi xưng là “ta”, là “tớ”,
có khi xưng “ông” thể hiện được một thái độ hết sức ngang tàng của mình. Ông
dám xưng tên ở giữa trời đất, dám khẳng định một bản ngã rất ngông mà không phải
ai cũng làm được.Đó là sự tự ý thức cao độ của một cái tôi táo bạo, đầy cá
tính.
Văn
học là tiếng nói của thế giới hiện thực, một tác phẩm văn học thoát ly khỏi nó
cũng chính là đang tự thủ tiêu giá trị của mình. Là một nhà thơ chân chính dẫu
trong phong thái của mình Tản Đà là một con người ngông nghênh nhưng đằng sau
đó chúng ta còn cảm nhận được sự suy tư về thời thế xã hội.
Xã
hội mà Tản Đà sống đó là một môi trường có sự đan xen giữa những giá trị cũ và
mới, là giai đoạn khủng hoảng về đường lối và tư tưởng và chính sự hỗn tạp ấy
đã thúc đẩy ông tìm đến với mông., thoát ly cuộc sống thực tại nhưng thoát ly
chứ không thoát tục con người ấy vẫn khôn nguôi nhìn về trần thế để mà suy xét
chiêm nghiệm.
Đối với Tản Đà trong một xã hội khi những
giá trị đạo đức của con người đang mai một dần do sự sụp độ không có gì cứu vãn
nổi của chế độ Phong Kiến và ảnh hưởng, du nhập của những luồng tư tưởng phương
Tây nên việc đưa lại cho nhân gian cái gọi là “ Thiên lương” là rất cần thiết,
bởi vậy trong cái ước muốn thoát ly của cuộc sống “ trích tiên” ông cho rằng
mình được trời giao cho một nhiệm vụ hết sức quan trọng:
Trời
rằng không phải là trời đày
Trời
định sai con một việc này
Là
việc thiên lương của nhân loại”
(
Hầu trời)
Trong
xã hội ấy đồng tiền có sự ngự trị vô cùng lớn và Tản Đà dù bề ngoài ông nói là
mình nghèo nhưng giai thoại thì cho rằng ông sống rất phong lưu. Tại sao vậy, dường như trong suy nghĩ của ông đồng tiền nó
không có tác dụng tích cực của nó,ông nhìn về thế giới của đồng tiền với cái
nhìn hóm hỉnh châm biếm sâu cay đầy thách thức:
Đồng
tiền!Đồng tiền!
Sao
em sắc sảo lại khôn ngoan?
Vừa
xinh vừa đẹp
Vừa
trắng, vừa tròn
Chán
chỗ nhà dân đến chỗ quan,
Quan
yêu quan để nhảy lên bàn
Cô
hầu nâng đỡ
Cậu
lính kêu van
Sướng
đến thế mà em nỡ bạc
Lại
đi théo chú Trích chú Cược tếch lên ngàn
( Đồng tiền)
Không
chỉ dừng lại ở sự đả kích đồng tiền trong thơ Tản Đà còn có sự đả kích đối với
những kẻ trưởng giả học làm sang. Bài
thơ “ Chim họa mi trong lồng” là một ví dụ. Với nghệ thuật chơi chữ “mi”
trong ‘mày” và mi trong chim họa mi tác giả đã bêu bộ mặt tự đắc của những kẻ
hay rêu rao về tài năng của mình:
Họa
mi ai vẽ nên mi?
Trông
mi thì đẹp hót thì mi hay!
Ai
đưa mi đến chốn này?
Nước
trong gạo trắng, mi ngày ăn chơi
Lồng
son cửa đỏ thảnh thơi
Mi
bay, mi nhảy sướng đời nhà mi!
Nghĩ
cho mi cũng gặp thì!
Rừng
xan mi có nhớ gì hay không?”
Hay
trong bài “ Gà thiến” nhà thơ cũng có cái nhìn tương tự, con gà được tác giả
phác họa với một ngôn ngữ, giọng điệu hóm hỉnh, trào lộng:
Gà
thiến muốn đi tu
Chưa
thuộc tiếng nam mô
Cửa
Phật chắc không hẹp
Cho
nhờ chỗ chóp bu
Cúc
cu!
Trong
con mắt của Tản Đà cái nhìn về hiện thực đời sống nó đã đi ra ngoài những quy
chuẩn đạo đức của lễ giáo phong kiến, con người ấy nhìn về hiện thực với con mắt
của một kẻ lãng tử, ngông ngạo. Trong bài “ Hoa sen nở trước nhất đầm” thì hình
ảnh của bông sen không còn là bông hoa quân tử nữa mà trở thành “ thân gái lạ” ở
mặt nước để rồi biết bao bướm lả ong lơi xúm vào. Đó là hình ảnh của một cô gái
đã ý thức về mình rất rõ thế nhưng vẫn không ngại phô trương chính bản thân : “
Đã trót hở hang khôn khép lại- Lại còn e nỗi chị em ghen”. Qủa thực trong cách
nhìn của Nguyễn Công Trứ mọi quy chuẩn đạo đức đã bị quy đổi, và cái đáng quý
hơn nữa là ông đã dám nói lên điều đó mà không sợ người đời, đó là điều khiến
ta khâm phục vậy:
Trong
đầm gì đẹp hơn sen
Một
đóa hoa kia nở trước tiên.
Mặt
nước chân trời thân gái lạ,
Đài
xanh, cành trắng, nhị vàng chen.
Xôn
xao bay rối vài con bướm,
Đủng
đỉnh bơi xa một chiếc thuyền.
Đã
trót hở hang khôn khép lại,
Lại
còn e nỗ chị em ghen.”
(
Hoa sen nở trước nhất đầm).
Hay
trong cách ông nhìn nhận về nhân vật Thúy Kiều, lẽ thường tình người ta thường
khen ngợi Thúy Kiều đức hạnh, thế nhưng dưới con mắt của ông nhà thơ trách Kiều
hầu rượu Hồ Tôn Hiến. Quy chuẩn xã hội trong thơ ông đã bị loại bỏ thay vào đó
là cách thể hiện riêng cá tính của nhà thơ:
Nửa đám ma chồng nửa tiệc quan
(…)Trơ
trơ nắm đất bờ sông nọ
Hồn
có nghe chăng mấy giọng đàn?
(
Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến)
Đối
với cuộc sống của chính bản thân mình, Tản Đà đã bê nguyên cuộc sống của mình
vào trong thơ mà không hề giấu diếm, nó thể hiện sự ý thức cao độ về mình, và
thông qua đó cũng phản ánh cái hiện thực xã hội:
Bẩm
trời cảnh con thực nghèo khó
Trần
gian thước đất cũng không có
(
Hầu trời)
Hay:
Cơm dưa muối khó khăn mới có
Của
không ngon nhà khó cũng ngon
Khi
vui câu chuyện thêm giòn
Chồng
chồng vợ vợ con con một nhà.
Ăn
rồi học tối qua lại sáng
Ít
tiền tiêu ngày tháng thảnh thơi”
(
Cảnh vui của nhà nghèo).
Ông
nói về cái nghèo trong sự thách thức với người đời, coi cái nghèo của mình là
hơn tất cả, một cái nhìn vượt lên trên hiện thực thể hiện sự kiêu bạc trong con
người ông:
Người
ta hơn tớ cái phong lưu
Tớ
cũng hơn ta cái sự nghèo
(
Sự nghèo).
Phản
ánh hiện thực trong cái Tôi điềm nhiên tự tại lạc quan đó là cách thể hiện độc
đáo trong thơ của Tản Đà, cuộc sống không lấy gì làm sang nhưng con người ấy đã
bộc lộ tất cả, sống thật với hoàn cảnh thực tại của mình. Dù có ngông nghênh
bao nhiêu dù có thoát ly cuộc sống trần ai nhưng trong thâm tâm của ông thì hiện
thực vẫn là hiện thực và tạm thời ông không thể sống được vào môi trường ấy nên
đành lánh tạm trong mộng trên trời, với những cuộc say, hành lạc mà thôi. Bởi vậy
ngòi bút của ông vẫn mang đậm chất hiện thực sắc nét, thể hiện sự chiêm nghiệm
về cuộc sống của một tấm lòng luôn hướng về đời như ông.
Ngông
chính là phản ứng của người nghệ sĩ trước thực tại, là cách sống, quan niệm sống
khác người, hơn người của những cái tôi mạnh mẽ, táo bạo trong xã hội.Chính vì
vậy, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến cái ngông của Tản Đà, chúng ta cũng đi từ thực
tế xã hội.
Thời
đại Tản Đà sinh ra và lớn lên có thể nói là một giai đoạn phức tạp và rối ren
nhất của lịch sử xã hội Việt Nam. Thực dân Pháp thi hành những chính sách cai
trị tàn bạo, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra đều thất bại, nhân dân lâm vào cảnh loạn
lạc. Hơn thế, cũng trong thời gian này, nền văn hóa nước ta có sự giao lưu rộng
rãi với nước ngoài, những luồng tư tưởng mới mẻ, những nét văn hóa khác biệt được
du nhập vào đất nước mà người ta vẫn gọi là hiện tượng “gió Á mưa Âu”. Sự rối
ren được thể hiện ở hầu hết các mặt từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.Đứng
trước một thực tại xã hội như thế, Tản Đà không tìm thấy một lối đi nào cho
mình.Ông thoát ly thực tại, đi vào trong cõi mộng và trốn tránh cõi trần.Ông
loay hoay với những giấc mộng con đến giấc mộng lớn, ông phản kháng lại hiện thực
bằng cách dùng văn chương để nói lên cái tôi cá nhân của mình.Ông chối bỏ, quay
lưng với hiện thực phũ phàng, đi tìm lí tưởng, ôm ấp lí tưởng ở thế giới thần
tiên được xây bằng trí tưởng tượng. Ông cũng sa vào cuộc sống hưởng lạc, triền
miên với những cuộc say và những chuyến đi. Ông cũng không yêu ở thế giới thực
mà lại tìm lên trời, bầu bạn với Hằng Nga, tâm sự với Ngưu lang, Chức Nữ. Cần
lưu ý rằng, thời đại mà ông sống vẫn chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo truyền
thống nên cách thể hiện cái tôi của ông thực sự rất ngông cuồng và táo bạo. Ông
dám nói những điều người khác không dám nói, dám làm những gì người khác không
dám làm. Ông đã phá vỡ sự gò bó của chế độ, đập tan xiềng xích lễ nghi trói buộc
con người. Thay vào đó, ông phơi trải tâm hồn mình một cách tự do, khẳng định
cá tính của mình theo một cách riêng biệt. Có thể nói, vì chán ghét thực tại,
vì không thể thay đổi thực tại nên Tản Đà đã thể hiện cái ngông của mình bằng
ngòi bút văn chương sắc sảo.
Cũng
trong lúc ấy, văn chương bị coi rẻ, nhiều người nghệ sĩ coi văn chương là sự
nghiệp gắn bó suốt đời rơi vào cảnh túng thiếu.Tản Đà cũng nằm trong số ấy.Cuộc
đời thi sĩ cho đến lúc nhắm mắt vẫn không thể thoát khỏi cảnh đói nghèo.Nhiều
câu chuyện thực tế cho thấy Tản Đà là người rất thoải mái, phóng túng trong chi
tiêu nên ông thường không ở lâu được một chỗ mà phải chuyển trọ rất nhiều lần.
Buồn phiền vì cuộc đời lắm nỗi âu lo, buồn vì văn chương bị ế rẻ, ông gánh văn
thơ lên bán chợ Trời. Ông thách thức với sự nghèo, coi mình hơn người là ở cái
nghèo.Ông cũng dám đánh thẳng vào bộ mặt xã hội những nụ cười mỉa mai, những lời
châm biếm sâu cay.Từ đó, ta thấy rằng hoàn cảnh cũng chính là một trong những
nguyên nhân dẫn đến cái ngông của Tản Đà.Tản Đà chống lại hoàn cảnh, tìm cách
thoát khỏi hoàn cảnh thực tế khó khăn bằng những ước muốn hết sức táo bạo đó là
lên trời, gặp tiên để khoe tài năng, để bán văn thơ đang bị người đời quên
lãng.
Một
điều ta không thê bỏ qua đó chính là bản lĩnh của thi sĩ.Như phía trên đã khẳng
định, một người nếu không có bản lĩnh thì sẽ không thể ngông.Tản Đà gặp phải rất
nhiều bi kịch trong cuộc đời.Từ bi kịch gia đình, bố mất sớm, mẹ bỏ đi đến bi kịch
tình yêu với ba lần thất bại và bi kịch công danh khi thi trượt trong kì thi đầu
tiên.Tất cả những thăng trầm ấy đã tạo nên một bản lĩnh vững vàng của thi
sĩ.Khi đối mặt với thực tế, Tản Đà không quá ngỡ ngàng trước sự đổi thay, rối
ren của nó mà thay vào đó là sự thất vọng, sự bất mãn, chán chường. Chính từ bản
lĩnh cá nhân mạnh mẽ, từ việc chán ghét thực tại, từ khát vọng muốn thoát khỏi
sự tù túng, chật hẹp của hoàn cảnh, Tản Đà đã ngông ngạo với đời, chống đối lại
cuộc đời bằng một thái độ quyết liệt, bằng quan niệm sống hết sức ngang tàng.
Ta
thấy, ngông không phải là một hiện tượng quá mới nhưng cũng không phải là cũ.
Trước Tản Đà nhiều cách ngông, nhiều cái tôi ngông đã xuất hiện như Nguyễn Công
Trứ, Tú Xương, … Nhưng đến với Tản Đà, một con người sinh ra ở buổi giao thời,
ta bắt gặp một cái tôi ngông mới mẻ hơn, độc đáo hơn. Mỗi cái ngông đều gắn với
lịch sử xã hội của nó vì vậy nó không hề lặp lại.Để làm rõ hơn sự giống và khác
nhau giữa cái ngông của Tản Đà và cái ngông của thi nhân xưa, ta sẽ so sánh với
cái ngông của Nguyễn Công Trứ.
Về giống nhau:
-
Cả hai thi sĩ đều thể hiện mình độc đáo
qua văn chương, chính sự nghiệp văn chương đã phản ánh cái tài hoa, tài tử, sự
phá phách, ngông nghênh của bản thân.
Trời
đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để
tháng ngày chơi”
(Nguyễn
Công Trứ)
Vùng
đất Tây Sơn nảy một ông
Tuổi chửa bao
nhiêu văn rất hung
Sông Đà núi Tản
ai hun đúc
Bút
thánh câu thần sớm vãi vung
(Tự trào_Tản Đà)
-
Dù ở hai giai đoạn khác nhau nhưng có những
điểm chung trong đề tài, nội dung phản ánh, giống nhau trong cách thể hiện đó
là ngôn ngữ và hình ảnh tất cả đều thể hiện cái ngông phá cách và rất riêng.
Tương
tư không biết cái làm sao
Muốn
vẽ mà chơi vẽ được nào?
(Tương tư _ Nguyễn
Công Trứ)
Quái lạ làm sao cứ nhớ nhau
Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu
Bốn
phương mây nước người đôi ngả
Hai
chữ tương tư một gánh sầu
(Tương tư_Tản Đà)
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi thủ khoa, khi tham tán, khi Tổng đốc
Đông
Gồm thao lược đã lên tay ngất ngưởng
(Bài
ca ngất ngưởng_Nguyễn Công Trứ)
Bởi ông hay quá ông không đỗ
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông
(Tự trào_Tản Đà)
-
Hai nhà văn đều ý thức cao về tài năng của
bản thân, dám nói giọng điệu bông lơn về những đối tượng như trời, tiên, bụt… Dám phô bày con người mình
vượt ra ngoài khuôn khổ của mình với thiên hạ, muốn đùa giỡn cùng thiên hạ.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười
ông ngất ngưởng
(Bài ca ngất ngưởng_Nguyễn
Công Trứ)
Tước hữu ngũ sĩ
cư kỳ liệt
Dân hữu tứ sĩ vi
chi tiên
(Kẻ
sĩ_ Nguyễn Công Trứ)
Văn đã giàu thay
lại lắm lối
Trời nghe Trời
cũng bật buồn cười!
Chư tiên ao ước
tranh nhau dặn:
“Anh gánh lên
đây bán chợ Trời!””
(Hầu
Trời_Tản Đà)
Điểm khác nhau:
Điểm khác
|
Tản Đà
|
Nguyễn Công Trứ
|
Thời đại
|
Là “con người của hai thế kỷ” , sống
trong thời đại giao thời, Hán học tàn mà Tây học cũng mới bắt đầu.
|
Là thời kỳ tương đối ổn định, nhà Nguyễn
khôi phục Tống Nho. Có sự phát triển của
kinh tế hàng hóa và xuất hiện tầng lớp
thị dân.
|
Cuộc đời
|
Học Hán văn, đi thi nhưng không đỗ nên
chuyển qua sáng tác văn chương quốc ngữ.
|
Đi thi, làm quan, bị thăng giáng chức
nhiều lần, có tài trên mọi lĩnh vực từ văn hóa, kinh tế đến quân sự.
|
Sự nghiệp
|
Là ngôi sao sáng trên thi đàn với nhiều
tác phẩm chủ yếu là sáng tác bằng chữ quốc ngữ.
|
Từng giữ nhiều chức quan lớn, giúp vua
dẹp giặc, thực hiện công cuộc khai hoang. Văn chương sác tác chủ yếu bằng chữ
Nôm và sở trường là hát nói.
|
Nội dung văn thơ
|
Thể hiện mình, khoe
tài văn chương hơn đời, sánh ngang cùng trời đất.
“Trời
lại phê cho: “văn thật tuyệt!
Văn
trần được thế chắc có ít!”
Cho
mình là một vị tiên bị đày xuống hạ giới “trích tiên” để làm “việc thiên
lương” của nhân loại.
“Trời
rằng: “ không phải là trời đày,
Trời
định sai con một việc này
Là
việc thiên lương của nhân loại
Cho
con xuống thuật cùng đời hay””.
Không
vô trách nhiệm nhưng không xem trọng đạo vua tôi, không quan tâm tới cuộc sống
chỉ vui chơi say “ thơ và rượu”.
“Say
rượu nghĩ cũng hư đời
Hư
thời hư vậy, say thời cứ say”
“Trời
đất sinh ta, rượu với thơ
Không
thơ không rượu sống như thừa
Công
danh hai chữ mùi men nhạt
Sự
nghiệp trăm năm nét mực mờ”
Đan xen mộng-tỉnh, tỉnh-say, tìm về với
sự thoát li, tìm gặp những con người lí tưởng, ông là người đa tình.
« Việc trần ai ai tỉnh ai lo
Say
túy lúy nhỏ to đều bất kể”
è Cái
ngông làm ngược với cuộc đời thể hiện mình trong sạch, một sự tự ý thức cao độ
về bản thân, tài năng và thái độ. Sống tự do thoải mái với sự khẳng định cá
nhân mới mẻ mà thời đại mang lại.
|
Đề cao chí nam nhi, nợ
tang bồng:
“Cũng
có lúc mưa tuôn sóng vỗ
Quyết
ra tay chèo lái với cuồng phong
Chí
những toan chẻ núi lấp sông
Làm
nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ”
Thể
hiện cái ngông của một bậc trung thần vẹn tròn đạo “sơ chung”,
bất mãn triều đình mục nát và thối rữa, xem thường công danh, lợi lộc.
“
Nghĩa vua tôi cho vẹn
đạo sơ chung
Trong
triều ai ngất ngưởng như ông”
Một
cái ngông nổi loạn, ngất ngưởng không quan tâm miệng lưỡi thế gian.
“ Khôn
khéo dễ hầu bưng khắp miệng
Khen
chê âu cũng gác ngoài tai”
Nhiều lúc ngạo nghễ nhưng có khi lại
bi quan do chưa thoát khỏi sự khắc kỷ của nho gia.
“Mai sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”
è Chưa có sức đả phá, chưa tạo thành một thế lực mạnh
nhưng chứng tỏ được sự ngông ngạo tổng hòa của hai nhân cách: nhà thơ và nhà
khai quốc công thần.
|
Tổng kết
|
Cái ngông về tài văn chương của mình
hơn đời thể, giá trị của mình sánh ngang với người trời thể hiện một sự khiêu
khích về giá trị con người trong xã hội.
|
Cái ngông đề cao cái tôi cá nhân nhưng
thể hiện bằng phong cách dân tộc thông qua thể hát nói.
Một phong cách ngông đạo mạo vượt lên
sự khen chê của dư luận.
|
Nhà thơ Xuân Diệu từng nói rằng:
"Tản Đà là thi sĩ đầu tiên, mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là
người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo
dạn, dám giữ một cái tôi”. Bằng bản lĩnh của mình, Tản Đà mang đến một luồng
sinh khí mới cho nền văn học Việt Nam.Thi sĩ trực tiếp thể hiện cái tôi bản ngã
của mình một cách hết sức độc đáo và mới mẻ.
Như Hoài Thanh đã nói "Tiên sinh
là người của hai thế kỉ”, Tản Đà là người đã đặt được dấu gạch nối giữa văn học
truyền thống và văn học hiện đại, là người "dạo bản đàn mở đầu cho một cuộc
hòa nhạc tân kì đương sắp sửa”(Hoài Thanh).
Tản
Đà nhìn nhận được mọi chuyện xảy ra trên đời đều là mộng.“Giấc mộng con” cũng
là mộng, “Giấc mộng lớn” cũng là mộng.Sự thoát ly cũng chính là cảm hứng của
nhiều nhà thơ trong phong trào Thơ mới sau này (Thế Lữ, Lưu Trọng Lư,…).
Tản Đà là lớp thế hệ đầu đưa văn
chương thành một nghề kiếm sống.
Ông đưa tình cảm con người cá nhân
trong đời sống bình thường của xã hội (nỗi buồn vui, lo âu, hi vọng, khát khao
yêu đương…), đi từ kinh nghiệm viết văn cũ, cách tân thể loại, phong cách làm
cho thơ văn trở nên nhuần nhị, hợp với thị hiếu của công chúng thành thị.Từ đó
làm xuất hiện công chúng văn học mới “công chúng văn học đô thị”.
+ thị hiếu đô thị
+
phương tiện thông tin báo chí
+ đồng tiền
Ông
đã làm thay đổi vị trí của văn học và tính chất của văn học. Để kiếm sống, Tản
Đà viết văn thơ phục vụ cho đối tượng công chúng đô thị nên để thu hút và phù hợp
thị hiếu dân chúng đô thị tính chất văn học và vị trí văn học trong văn thơ Tản
Đà cũng có sự thay đổi. Nếu truyền thống văn học khoác chiếc áo cao đạo, thanh
tao thì giờ đây nó được xem là thứ hàng hóa linh động được trao đổi giữa tác giả
và công chúng thông qua trung gian là nhà xuất bản và tòa báo.
Cùng
nói về cảnh nghèo hay sự lộng hành của đồng tiền nhưng sự đóng góp của Tản Đà
là sự tiếp biến của các nhà thơ trước như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát… Tản Đà
không dấu diếm, mà thành thật, không mĩ hóa cảnh nghèo. Đồng tiền luồn lách,
làm chủ xã hội không chỉ thay quyền uy làm chủ số phận con người như trong Truyện
Kiều khi Thúy Kiều không còn sự lựa chọn mà Tản Đà còn tinh tế khi thấy xã hội
của ông sống đồng tiền còn chia phối cả nhân cách, hạnh phúc lứa đôi(khi con
người đáng được hạnh phúc, hoàn toàn có thể làm chủ hạnh phúc).
Với việc thể hiện một cái ngông hết sức
táo bạo cùng một cảm hứng mới mẻ- cảm hứng lãng mạn, Tản Đà là người đi đầu,
tiên phong trong phong trào Thơ mới. Ông cũng là người khơi nguồn cho làn sóng
văn học lãng mạn diễn ra mạnh mẽ, góp phần thay đổi diện mạo của văn học.
Để nói lên vai trò của Tản Đà, xin được
trích câu nói của Xuân Diệu trong bài phê bình văn học “Công của thi sĩ Tản
Đà”: “Chúng ta hiện nay có một tâm hồn khúc chiết, dù xu hướng về một lối thơ hợp
với những tình cảm mới, chúng ta vẫn yêu và kính phục luôn luôn nhà thi sĩ thứ
nhất đã cho chúng ta nghe những khúc giáo đầu đặc biệt tài hoa, những khúc giáo
đầu của thơ hiện kim, của Thơ mới” (Thơ Tản Đà tác phẩm và lời bình, NXB Văn học,
2007, tr 175).
Thời
của Tản Đà là thời giao thoa cũ- mới, thơ văn ít nhiều “chết” dần về cái tinh
cái đẹp. Cái “NGÔNG” tưởng cũng mất theo. Nhưng may thay, Tản Đà đã kéo nó lại,
khoác lên cho nó “tấm da cừu” đẹp đẽ và giản dị. Với thơ ông, cái ngông không
còn bơ vơ đi tìm chỗ trú, không còn bận bịu lo toan tồn tại, nó tồn tại như nó
vốn dĩ tồn tại. Tản Đà gieo vào thơ ca, đẩy lên thi đàn một cái ngông đậm chất
trữ tình, đó là cái tôi không chịu ngồi yên, cái tôi thấp thỏm, cái tôi muốn rời
bỏ cái ghế kìm kẹp mấy trăm năm để mà đi
lại tự do. Đó còn là cái ngông bất chấp sự đời mà vẫn đau đời; rủ bỏ, thoát li
khỏi cuộc đời mà vẫn cố gìn giữ thiên lương cho người. Tóm lại, cái ngông trong
thơ Tản Đà thiếu quy chuẩn của một con người bình thường nhưng đủ quy cách của
một nhà thơ, đủ tư cách của một kẻ đi tìm kiếm, gìn giữ và bảo vệ nhân tính,
thiên lương. Đồng thời.cái ngông ấy cũng giúp cho hậu thế hiểu hơn, rõ hơn và cảm
phục hơn về con người trong thơ và đời của Tản Đà – trích tiên.
Tài liệu tham khảo
1.
Lịch
sử văn học Việt Nam, tập 4B, NXB Giáo dục, 1976.
2.
Tản
Đà thơ và đời, NXB Văn học, 1995.
3.
Thơ
văn Nguyễn Công Trứ, Kiều Văn, NXB Đồng Nai, 2000.
4.
Thơ
Tản Đà tác phẩm và lời bình, Tuấn Thành- Vũ Nguyễn tuyển chọn, NXB Văn học,
2007.
5.
Luận
văn “Tính chất quá độ trong thơ Tản Đà”- Lê Thị Thúy Hằng,