Tuesday, October 21, 2014

ĐỘC THÂN

Standard

Đừng vội buồn vì không có người yêu
Bởi độc thân là có nhiều lắm đấy
Có nhiều thời gian để tha hồ bay nhảy
Chẳng ai ghen hay này nọ mệt người.

Thay vì được nắm tay gấu đi chơi
Thì cùng bạn bè đến những nơi mình muốn
Chẳng phải lo có ai kia hờn giận
Giải thích mỏi mồm vẫn ấm ức lặng im.

Độc thân là khi được thỏa sức ngắm nhìn
Gái đẹp trai xinh cười một mình sung sướng
Độc thân là được mỗi cuối tuần ngủ nướng
Thay vì hẹn hò phải thấp thỏm ngóng trông.

Độc thân là khi khỏi phải nghĩ lung tung
Sao dạo này ai lạnh lùng hờ hững
Cãi vã giận hờn rồi cả ngày buồn bực
Cơm không ăn, còn sưng mắt vì buồn.
Nguồn: sưu tầm

20-10 CHO MẸ ! ( Nguồn: Huyền Pana)

Standard

Gió Sài Gòn bắt đầu se se lạnh
Mùa đông lại về, con vẫn ở xa quê
Nhớ tháng ngày ở gần kề bên mẹ
Nhưng có bao giờ nhớ đến ngày mẹ đâu…

Hai mươi tháng mười nghe mãi chỉ một câu
Đây sẽ là ngày dành riêng cho mẹ
Người sớm hôm luôn âm thầm, lặng lẽ
Cho con suối nguồn ấm áp tiếng hát, lời ru

Mẹ giống như những chiếc lá mùa thu
Rồi sẽ rơi đi khi gió chiều lay mạnh
Mùa đông về sẽ chỉ còn là lạnh !
Nếu một ngày vắng bóng mẹ bên con

Chúc mẹ hiền có những giấc ngủ ngon
Không còn những ngày vì con mà vất vả
Đoạn đường đời sẽ còn nhiều vấp ngã
Nhưng luôn ấm lòng vì có mẹ mãi mãi dõi theo con!


Friday, October 17, 2014

Chi tiết " tiếng sáo" trong Vợ chồng A phủ ( Nguồn: Sưu tầm)

Standard


Có lúc “tiếng sáo gọi bạn đầu làng”văng vẳng từ xa, có khi “tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi” mỗi lúc một gần hơn, có lúc tưởng như sắp nắm bắt được thì tiếng sáo lại tuột khỏi tầm tay Mị và “lửng lơ” bay ngoài đường có khi nó “rập rờn” trở thành trong sâu thẳm tâm hồn.
Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” – nhà văn Tô Hoài đã miêu tả âm thanh của tiếng sáo đêm xuân như một thứ thuốc “gọi hồn” . Nhà văn đã hơn sáu lần miêu tả các trường độ âm thanh của tiếng sáo. Có lúc “tiếng sáo gọi bạn đầu làng”văng vẳng từ xa, có khi “tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi” mỗi lúc một gần hơn, có lúc tưởng như sắp nắm bắt được thì tiếng sáo lại tuột khỏi tầm tay Mị và “lửng lơ” bay ngoài đường có khi nó “rập rờn” trở thành trong sâu thẳm tâm hồn. từng thanh âm của tiếng sáo với những cường độ và cao độ khác nhau khi trầm bổng, khi xa khi gần là tiếng đời, khi là tiếng lòng cứ không thôi thổn thức, dậy lòng trong lòng Mị. Tiếng sáo là biểu tượng của quá khứ tươi đẹp, là âm hưởng của “một thời xa vắng” đã bị Mị lãng quên trong những mùa đông dài đầy “giông tố” của cuộc đời. Từng tiếng sáo như rót tâm sự vào lòng Mị. Nó bồi hồi, quyến rũ, nó réo rắt mời Mị thoát khỏi hiện tại cay đắng về lại ngày xưa – cái thời: “có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Lúc này đây, Mị cũng như Huệ Chi trong tiểu thuyết “Cửa biển” của nhà văn Nguyên Hồng, cũng đang sống trong mộnh du cứ “vùng bước đi” theo tiếng gọi huyễn hoặc thân quen, và tiếng sáo kia đã trở thành tiếng gọi của Mẹ, tiếng gọi của tình người, tình đời, tiếng gọi của sự sống. Có thể nói tiếng sáo đã trở thành nhịp cầu nối giữa hiện tại đau khổ với quá khứ tươi đẹp, là con thuyền đưa Mị về với bến xưa dẫu chỉ là trong tâm tưởng. Cùng với cảnh sắc Hồng Ngài khi Xuân về và men rượu, tiếng sáo đã cộng hưởng, làm thức tỉnh ý niệm về sự sống, sự tồn tại trong Mị. Nhà văn Tô Hoài đã rất tài tình khi dung các trường độ, độ cao thấp của âm thanh tiếng sáo để diễn tả các cung bậc tâm trạng, sự xáo trộn trong tâm tư Mị và giúp người đọc khám phá chiều sâu nội tâm nhân vật.
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi
          Quả pao rơi rồi, tình đầu mất và tuổi xuân của Mị cũng bị đời bỏ vào cái hố sâu. Nhưng với bàn tay yêu thương, giàu tình nhân đạo, nhà văn Tô Hoài đã nâng Mị dậy, giúp Mị tìm lại sức sống ngày xưa.

Vợ chồng A phủ - Tô Hoài ( Nguồn: Sưu tầm)

Standard



Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý (1) Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tầng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa.
Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta nói: nhà Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều , đồn Tây lại cho muối về bán, giầu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuộc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái thống lý: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lý.
Mỵ về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, không nhớ, cũng không ai nhớ. Những người nghèo ở Hồng Ngài thì vẫn còn kể lại câu chuyện Mỵ về làm người nhà quan thống lý.
(1) Tổ chức cai trị của đế quốc Pháp trước đặt chức thống lý cho bọn chức việc người Mông, cũng như chánh thổng, lý trưởng ở xuôi, phìa ở làng Thái.
Ngày xưa bố Mỵ lấy mẹ Mỵ không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lý, bố của thống lý Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho nhà chủ nợ một nương ngô. Ðến tận khi hai vợ chồng về già mà cũng chưa xong nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ.
Cho tới năm ấy Mỵ đã lớn, Mỵ là con gái đầu lòng. Thống lý đến bảo bố Mỵ: - Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xoá hết nợ tho.
Ông lão nghĩ năm nào cũng phải trả một nương ngô cho người ta, tiếc ngô, nhưng cũng lại thương con quá. Ông chưa biết nói thế nào thì Mỵ bảo bố rằng:
- Con đã biết cuốc nương làm ngô, con làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.

Tết năm ấy, tết vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái, bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách.
Trai đứng nhắn cả chân vách đầu buồng Mỵ.
Một đêm, khuya Mỵ nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hẹn của người yêu. Mỵ hồi hộp lặng lẽ quờ tay lên, gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ. Một ngón đeo nhẫn. Người yêu Mỵ đeo nhẫn ngón tay ấy. Mỵ nhấc tấm vách gỗ. Một bàn tay bắt Mỵ bước ra.
Mỵ vừa bước ra, lập tức có mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mỵ rồi bịt mắt cõng Mỵ đi.

Sáng hôm sau, Mỵ mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lý. Họ nhót Mỵ vào buồng.
Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma rập rờn nhảy múa.
A Sử đến nhà bố Mỵ.
A Sử nói:
- Tôi đã đem con gái bố về cúng trình ma nhà tôi. Bây giờ tôi đến cho bố biết. Tiền bạc để cưới, bố tôi bảo đã đưa cả cho bố rồi (1)
Rồi A Sử về. Ông lão nhớ câu nói của thống lý dạo trước; cho con gái về nhà thống lý thì trừ được nợ. Thế là cha mẹ ăn bạc nhà giàu kiếp trước, bây giờ người ta bắt con trừ nự. Không làm thế nào khác được rồi.
Có đến mấy tháng, đêm nào Mỵ cũng khóc.

Một hôm, Mỵ trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố, Mỵ quì, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mỵ cũng khóc, đoán biết lòng con gái:
- Mày về chào lậy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn quan lại bắt trả nợ. Mày chết rồi, không lấy ai làm nương ngô, trả được nợ, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!

(1) người Mông có tục cướp vợ trai gái yêu nhau, bằng lòng nhau (có khi chỉ anh con trai muốn lấy người con gái giữa đêm cùng một số bạn trai khác, đến nhà hiếm). Người con trai giữa đêm cùng một số bạn trai khác, đến nhà người yêu, bí mật "cướp" đi. Hôm sau, người trai trở lại báo tin cho bố người gái ấy là tôi đã cướp được con gái ông làm vợ. Thế là phong tục bắt bố phải nhận lời. Cưới lối "cướp" như thế, người tai mất rất ít tiền.
Thường mùa xuân ăn Tết, con trai hay đi "cướp" vợ. Ðó là phong tục vui, thanh niên rất thích. Bây giờ vẫn thường xảy ra.

Mỵ chỉ bưng mặt khóc. Mỵ ném nắm lá ngón(1) xuống đất. Nắm lá ngón Mỵ đã đi tìm hai trong rừng. Mỵ vẫn giấu trong áo. Thế là Mỵ không đành lòng chết. Mỵ chết thì bố Mỵ còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ.
Mỵ lại trở lại nhà thống lý.

Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mỵ chết. Nhưng Mỵ cũng không còn nghĩ đến Mỵ có thể ăn lá ngón tự tử. ở lâu trong cái khổ, Mỵ cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi.
Mỵ cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, lúc nào cũng nhớ lại những việc giống nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cách tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày.

Mỗi ngày Mỵ càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. ở
buồng Mỵ nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. Ðến bao giờ chết thì thôi.
Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên các nhà kho.
Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đốt những những lều quanh nương để
sưởi lửa. ở Hồng Ngài, người ta thành lệ, cứ ăn tết thì gặt hái vừa đoạn, không kể ngày tháng. ¡n tết thì gặt hái vừa đoạn, không kể ngày tháng. ¡n tết thế cho kịp mưa xuân xuống, đi vỡ nương mới.

(1) một thứ thuốc độc
Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, rét
càng dữ.
Nhưng trong các làng Mông Ðỏ, những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xoè như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện nở trắng lại nở màu đỏ hau, đỏ thậm, rồi nở mầu tìm man mát. Ðám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà.
Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mỵ nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi.

"Mày có con trai con gái
Mày đi nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu"
Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới.
ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm sân chơi chung ngày tết. Trai gái, trẻ con ra sân ấy tụ tập đánh pao, dánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy.

Cả nhà thống lý ăn xong bữa cơm tết cúng ma. Xung quanh chiêng đánh ầm ỹ, người ốp đồng vẫn nhảy lên xuống, rung bần bật. Vừa hết bữa cơm tiếp ngay cuộc rượu bên bếp lửa.
Ngày tết, Mỵ cũng uống rượu. Mỵ lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say, Mỵ lịm mặt đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mỵ đang sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mỵ thổi sáo giỏi. Mùa xuân đến, Mỵ uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mỵ uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mỵ hết núi này sang núi khác.
Rượu tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mỵ không biết. Mỵ vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mỵ mới đứng dậy. Nhưng Mỵ không bước ra đường. Mỵ từ từ vào buồng.
Chẳng năm nào A Sử cho Mỵ đi chơi hết.
Bấy giờ Mỵ ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Từ nay Mỵ thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mỵ trẻ, Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mỵ không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chì thấy nước mặt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.

" Anh ném pao
Em không bắt
Em không yêu
Quả pao rơi rồi..."
A Sử vừa ở đâu về, lại sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khoác thêm vòng bạc vào cổ rồi bịt cái khăn trằng lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày mấy đêm. Nó còn đương rình bắt nhiều người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mỵ nói.
Bây giờ Mỵ cũng không nói. Mỵ đến góc nhà, lấy ông mỡ, sắn một miếng, bỏ thêm voà đĩa đèn cho sáng.
Trong đầu Mỵ đang rập rờn tiếng sáo. Mỵ muốn đi chơi. Mỵ cũng sắp đi chơi. Mỵ quấn lại tóc. Mỵ với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. A Sử nhìn quanh thấy Mỵ rút thêm cái áo.
A Sử hỏi:
- Mày muốn đi chơi à?
Mỵ không nói. A Sử cũng không hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mỵ, lấy thắt lưng trói tay Mỵ. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trới đứng Mỵ vào cột nhà. Tóc Mỹ xoã xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột. Mỵ không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong. A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại.

Trong bóng tối, Mỵ đứng im như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mỵ vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mỵ đi theo những cuộc chơi. "Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào!" Mỵ vùng bước đi. Nhưng chân đau không cựa được. Mỵ không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mỵ thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này, lúc trai đang đến gò vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mỵ nín khóc, Mỵ lại bồi hồi.
Cả đêm Mỵ phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại tràn trề tha thiết nhớ. Hơi rượu toả. Tiếng sáo. Tiếng chó sửa xa xa. Mỵ lúc mê, lúc tình. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.
Mỵ bàng hoàng tỉnh. Buổi sáng âm âm trong cái nhà gỗ rộng. Vách bên cũng im ắng. Không nghe tiếng lửa réo trong lò nấu lợn. Không một tiếng động. Không biết bên buông quanh đấy, các chị vợ anh, vợ chú của A Sử có còn ở nhà, không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan đã được đi chơi hay cũng đang phải trói như Mỵ. Mỵ không thể biết.
Ðời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài, một đời người chỉ biết đi theo đuổi con ngựa của chồng. Mỵ chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lý Pá Tra có người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến, vợ chết rồi. Mỵ sợ quá, Mỵ cựa quậy. Xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây chói xiết lại, đâu đứt từng mảnh thịt.

Có tiếng xôn xao phía ngoài. Rồi một đám đông vào nhà. Thống lý Pá Tra xuống ngựa vứt cương cho "thị sống" (một chức việc đi hầu thống lý như người làm mõ thời trước) dắt ngựa vào tàu. Nghe như bọn họ khiêng theo con lợn, hoặc một người phải trói, vừa vứt huỵnh xuống đất, cứ thở phò phò. A Sử chệnh choạng vào buồng. áo rách toạch một mảnh vai. Cái khăn xéo trắng loang lổ máu, xụp xuống quanh trán. A Sử nằm lăn ra giường. Thống lý Pá Tra bước vào. Theo sau thống lý, một lũ "thống quán" (Một chức việc như phó lý) "xéo phải" (như trưởng thôn) và bọn thị sống vẫn thường ra vào hầu hạ, ăn thịt uống rượu, hút thuốc phiện nhà thống lý.
Có người bấy giờ mới nhìn thấy Mỵ phải trói đứng trong cột. Nhưng cũng không ai để ý. Họ xúm lại quanh giường A Sử.
Pá Tra, tay vẫn cầm cái roi ngựa, lại từ từ đi ra. Mỵ nhắm mặt lại, không dám nhìn. Mỵ chỉ nghe hình như có tiếng ông thống lý gọi người ra ngoài. Mỵ hé nhìn ra, thấy chị dâu bước tới. Người chị dâu ấy chưa già, nhưng cái lưng quanh năm phải đeo thồ nặng quá, đã còng rạp xuống. Người chị dâu đến cởi chói cho Mỵ. Sợi dây gai bắp chân vừa lỏng ra, Mỵ ngã sụp xuống. Chị dâu khẽ nói vào tai Mỵ:
- Mỵ! đi hái thuốc cho chồng mày.
Mỵ quên cả đau đứng lên. Nhưng không nhích chân lên được. Mỵ phải ôm vai chị dâu. hai người khổ sở dìu nhau bước ra. Vào rừng tìm lá thuốc, Mỵ nghe nói lại, mới biết A Sử đi chơi bị đánh vỡ đầu.
Nửa đêm qua, A Sử vào làng tìm đến đám tiếng sáo, tiếng khèn. Nhiều
chàng trai làng ấy vào các làng khác, chơi quay, thổi sáo suốt ngày, chập tối vừa tan xong chầu rượu trong nhà, bây giờ vẫn còn chưa chịu tan về. Lúc A Sử và chúng bạn kéo đến, không còn ai chơi trong nhà. Nhưng người ra người vào còn dập dìu quanh ngõ.
A Sử đứng ngoài, tức lắm. Nó bàn với lũ khác, doạ đánh bọn trai lạ bám quanh nhà, khiến bọn A Sử bị vương không thể vào được.
Bọn A Sử ném vào vách. Ông bố trong nhà ra chửi. Vẫn ném. Ông lão vào trong cửa, bắn ra hai phát súng. Thế là tan những đám hẹn.
Nhưng cũng chưa người trai nào vội về. Họ tản vào các nhà quen trong xóm. Ðợi sáng mai lại lên sân đánh pao với con gái trong xóm.
Bọn A Sử cũng không chịu để cánh kia yên. Sáng sớm, khi họ vừa ra đầu ngõ, bọn A Sử đã kéo đến gây sự. A Sử đi trước, nạm vòng bạc rủ xuống tua chỉ xanh đỏ, chỉ riêng con cái nhà quan trong làng mới được đeo. A Sử hùng hổ bước ra. Bọn kia đứng dồn cả lại, xôn xao.
- Lũ phá đám ta hôm qua đây rồi.
- A Phủ đâu! A phủ đánh chết nó đi!
Một người to lớn chạy vụt ra, vung tay ném con quay thẳng vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp. Người làng nghe tiếng hò hét đổ ra. Bọn trai làng lạ tản hết lên rừng. Mấy người đuổi đón đầu A Phủ.

A Phủ bị bắt sống, trói gô chân tay lại. Vừa lúc thồng s lý Pá Tra tới. Chúng nó xọc ngang cái gậy, khiêng A Phủ mang về ném xuống giữa nhà thống lý.
Mỵ đi hái được lá thuốc về, thấy trong nhà càng đông hơn lúc nãy. Ngoài sân, dưới gốc đào lại buộc thêm mấy con ngựa lạ.
Mỵ đi cửa sau vào, lé mặt nhìn thấy một người to lớn quỳ trong góc nhà. Mỵ đoán đấy là A Phủ.
Bọn chức việc cả vùng Hồng Ngài đến nhà thống lý dự đám kiện.
Các lý dịch, quan làng thống quán, xéo phải, đội mũ quấn khăn, xách gậy, cưỡi ngựa kéo đến xử kiện và ăn cỗ.
Trong nhà thống lý đã bày ra năm bàn đèn. Khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp. Cả những người chức việc bên làng A Phủ cũng tới. Chỉ bọn trai làng ấy phải ngồi khoanh tay cạnh A Phủ, vì họ bị gọi sang hầu kiện. Bọn chức việc nằm dài cả trên khay đèn.
Suốt từ trưa cho tới hết đêm, mấy chục người hút. Trên nhất là thống lý Pá Tra. Thống lý hút xong một đợt năm điếu, đến người khác, lại người khác, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về dự kiện.
Chỉ có đàn bà ngồi trong buồng và đi bên ngoài dòm ngó đám xử kiện và A Phủ quỳ chịu tội ở xó nhà, không được dự tiệc hút ấy.
Một loạt người vừa hút xong, Pa Tra ngồi dậy, vuốt ngược cái đầu trọc dài, kéo đuôi tóc ra đằng trước, cất gọng lè nhè gọi:
- Thằng A Phủ ra đây.
A Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa lên thống lý rồi quay lại đánh A Phủ.
A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá...
Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Người đánh, kể, chửi , lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ... Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút.

Trong buồng bên cạnh, Mỵ cũng thức suốt đêm, im lặng ngồi xoa thuốc dấu cho A Sử. Lúc nào Mỵ mỏi quá, cựa mình, những chỗ lằn trói trong người lại đau ê ẩm. Mỵ lại gục đầu nằm thiếp. A Sử đạp chân vào mặt Mỵ. Mỵ choàng thức, lại nhặt nắm lá thuốc xoa đều đều trên lưng chồng.
Ngoài nhà vẫn rên lên từng cơn kéo thuốc phiện, như những con mọt nghiến ghỗ kéo dài, giữa tiếng người khóc, tiếng người kể lào xào, và tiếng đấm đánh huỳnh huỵch.
Sáng hôm sau, đám kiện đã xong. Mấy người chẳng biết từ bao giờ, ngủ
ngáy ngay bên khay đèn. Bọn xéo phải đang bắc cái chảo đồng và xách ấm nước ra nấu thêm lạng thuốc để hút ban ngày cho các quan làng thật tình, các quan làng còn một tiệc ăn cỗ nữa.
Thống lý mở tráp, lấy ra một trăm đồng bạc hoa xoè bày lên mặt tráp, rồi nói:
- Thằng A Phủ kia, mày đành người thì làng xử mày phải nộp vạ cho người phải mày đánh là hai mươi đồng, nộp cho thống quán năm đông, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về hầu kiện năm hào. Mày phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm qua tới nay. Lại mất con lợn hai mươi cân, chốc nữa mổ để các quan làng ăn vạ mày. A Phủ, mày đánh con quan làng, đáng lẽ làng xử mày tội chết, nhưng làng tha cho mày được sống mà nộp vạ. Cả tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn, mày phải chịu một trăm bạc trắng. Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền trả thì tao cho mày về, chưa có tiền trả thì tao bắt mày làm con trâu cho nhà tao. Ðời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi. A Phủ! Lại đây nhận tiền quan cho vay.

A Phủ lê hai cái đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù. A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá Tra đốt hương, lầm rầm khấn gọi mà về nhận mặt người vay nợ. Pá Tra khấn xong, A Phủ cũng nhặt xong bạc, nhưng chỉ nhặt làm phép lên như thế rồi lại để ngay xuống mặt tráp. Rồi Pá Tra lại trút cả bạc vào trong tráp.
Con lợn vừa bắt về cho A Phủ thết làng ăn vạ đã kêu eng éc ngoài sân. Ðếm tiền rồi, A Phủ không phải quỳ, phải đánh nữa.
A Phủ đứng lên cầm con dao, chân đau bước tập tễnh, cùng với trai làng ra chọc tiết làm thịt lợn hầu làng.
Trong nhà, thuốc phiện vẫn hút rào rào.

Thế là từ đấy A Phủ phải ở trừ nợ cho nhà quan thống lý. Ðốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò rừng. A Phủ đương tuổi sức lực. Ði làm hay đi săn cái gì cũng phăng phăng. Không còn có lúc nào trở về làng bên. Nhưng A Phủ cũng chẳng muốn trở về làm gì bên ấy.
A Phủ cũng không phải người bên ấy. Bố mẹ đẻ A Phủ ở Hắng Bìa. Năm xưa, làng Hắn Bìa phải một trận bệnh đậu mùa, nhiều trẻ con, cả người lớn chết, có nơi chết cả nhà. Còn sót lại có một mình A Phủ. Có người làng đói bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười một tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không chịu ở cánh đồng thấp.
A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài. Ði làm cho nhà người, lần nữa mùa này sang mùa khác. Chẳng bao lâu A Phủ đã lớn, biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo.
A Phủ khoẻ, chạy nhanh như ngựa. Con gái trong làng nhiều cô mê. Nhiều người nói: "Ðứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà.
Chẳng mấy lúc mà giàu". Người ta ao ước đùa thế thôi chứ phép rượu cũng chẳng to hơn phép làng, còn tục lệ cưới xin, mà A Phủ không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc, A Phủ không thể lấy nổi vợ.
Tuy nhiên, đang tuổi chơi, trong ngày tết đến, A Phủ chẳng có quần áo mới như nhiều trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng bằng sợi dây đồng vía lằn trên cổ. A Phủ cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, đem con quay và quả pao, quả yến đi tìm người yêu ở các làng trong vùng.
Vì thế sinh sự đánh nhau ở Hồng Ngài.

Một năm kia, phải khi đang đốt rừng. Hổ gấu từng đàn ra phá nương, bắt mất nhiều bò ngựa. Nhà thống lý lúc nào cũng đầy ngựa trong tàu trước cửa, đầy lưng bò đứng chen chân trong cột cửa, và dê, chó, lợn nằm quanh nhà. Ngày nào cũng lũ lượt hàng mấy chục con đi nương ăn. Bây giờ gặp khi rừng đói, mỗi lần bò ngựa đi nương, A Phủ phải ở lại trong rừng.
A Phủ ở lều hàng tháng ngoài nương. Ðêm đến, dồn bò ngựa về nằm chầu nhau ngủ quanh lều.
Mấy ngày A Phủ mê mải đi bẫy dím, không đếm được ngựa. Hôm ấy vào rừng thấy vết chân hổ. A Phủ vội phóng ngựa chạy vờn quanh đàn, dồn chúng quấn lại để đếm. A Phủ đếm lại mấy lần. Thiếu một con bò. A Phủ nhào vào rừng, lần theo lốt chân hổ, tìm được con bò đã bị hổ ăn thịt, chỉ còn lại một nửa mình nằm ngay dưới cây thông cụt.
A Phủ nhặt mấy miếng thịt rơi quanh đấy rồi vác nốt nửa con bò về. Nghĩ bụng: "Con hổ này to lắm. Hay còn ngưởi thấy mùi hôi quanh đây. Ta về lấy súng đi tìm, thế nào cũng bắn được".
Về đến nhà, A Phủ lẳng vai ném nửa con bò xuống gốc đào trước cửa. Pá Tra bước ra hỏi:
- Mất mấy con bò?
A Phủ trả lời tự nhiên:
- Tôi về lấy súng. Thế nào cũng bắn được. Con hổ này to lắm.
- Pá Tra hất tay, nói:
- Quân ăn cướp mất bò tao. A Sử đâu! Ðem súng đi lấy con hổ về.
Rồi Pá Tra quay lại, bảo A Phủ:
- Mày ra ngoài kia, lấy vào đây một cái cọc, một cuộn dây mây. Tao trói mày chỗ kia. Bao giờ chúng nó bắn được con hổ về thì mày khỏi phải chết. Nếu không bắn được con hổ về thì tao cho mày đứng chết ở đấy.
A Phủ cãi:
- Tôi được con hổ ấy còn nhiều tiền hơn con bò.
Pá Tra cười:
- Lấy cọc dây mây vào đây!ư
Không nói nữa, như con trâu đã đóng lên tròng. A Phủ lẳng lặng ra vác chiếc cọc gỗ rồi lấy cuộn dây mây trên gác bếp xuống. Tự tay A Phủ đóng cọc xuống bên cột, Pá Tra đẩy A Phủ vào chân cột, hai tay bắt ôm quặt lên. Rồi dây mây cuốn từ chân lên vai, chỉ còn cổ và đâu lúc lắc được.
Ðàn bà trong nhà, mỗi khi đi qua đều cúi mặt. Không một ai dám hỏi. Cũng không một ai dám nhìn ngang mặt.
Ðến đêm, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai vòng mây, nhích dãn dây trói một bên ta. Nhưng trời cũng vừa sáng. Pá Tra quảng thêm một vòng tròng lọng vào cổ. Thế là A Phủ không cúi, không còn lắc được nữa.
A Sử và lĩnh dõng của thống lý đi đuổi, mấy ngày không lùng bắt được con hổ. Thì cũng mấy ngày A Phủ phải trói đứng góc nhà. Ðằng kia, bếp lò bung ngô cao ngang đầu người vẫn hừng hực đỏ rực. Môi hôm hai buổi, người ta ra người vào ăn uống tấp nập. A Phủ đứng nhắm mắt, cho tới đêm khuya.

Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mỵ cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mỵ dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần.
Thường khi đến gà gáy, Mỵ dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu, các chị em trong nhà mới bắt đầu ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn.
Mỗi đêm, nghe tiếng phù phù thổi bếp, a Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa bùng lên, cùng lúc ấy Mỵ cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng. Mới biết nó còn sống. Mấy đêm nay như thế.
Nhưng Mỵ vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. nếu A Phủ là cái xác chết đứng chết đấy, cũng thế thôi. Mỵ vẫn trở dậy, vẫn sưởi, Mỵ chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về thấy Mỵ ngồi đấy, A Sử ngứa tay đánh Mỵ ngã xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mỵ vẫn ra sưởi như đêm trước.
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên. Mỵ trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên. Mỵ trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hóm má đã xám đen. Thấy tình cảnh thế, Mỵ chợt nhớ đêm năm trước, A Sử trói Mỵ, Mỵ cũng phải trói đứng thế kia. Nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết. Nó bắt mình chết cũng thôi. Nó đã bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Chỉ đêm mai là người ta chết, chết đau, chết đối, chết rét, phải chết. Ta là thân phận đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết. A Phủ ... Mỵ phảng phất nghĩ như vậy.

Ðám than đã vạc hẳn lửa. Mỵ không thổi cũng không đứng lên. Mỵ nhớ lại đời mình. Mỵ tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng trốn được rồi, lúc đó bố con thống lý sẽ đổ là Mỵ đã cởi trói cho nó, Mỵ liền phải trói thay vào đấy. Mỵ chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, nhưng làm sao Mỵ cũng không thấy sợ...
Trong nhà tối bưng, Mỵ rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mỵ tưởng như A Phủ biết có người bước lại... Mỵ rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ thở phè từng hơi như rắn thở, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mỵ cũng hốt
hoảng. Mỵ chỉ thì thào được một tiếng "Ði đi..." rồi Mỵ nghẹn lại. A Phủ khuỵu xuống không bước nổi.
Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vung lên, chạy.
Mỵ đứng lặng trong bóng tối.
Trời tối lắm. Mỵ vẫn băng đi. Mỵ đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy xuống tới lưng dốc.
Mỵ thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho...
A Phủ chưa kịp nói, Mỵ lại vừa thở vừa nói:
- ở đây chết nất,
A Phủ chợt hiểu.
Hai người đỡ nhau lao xuống dốc núi.

Hai người đi ròng rã hơn một tháng. Họ truyền trên những triền núi cao ngất, lốm đốm nhà, thấp thoáng ruộng, đất đỏ, suối trắng tinh, trông thấy trước mặt mà đi mấy ngày chưa tới. Từ Hồng Ngài xuống qua vùng ruộng ở Mường Quài của người thái, từ Nậm Cất sang Chống Chia, từ Chống Chia qua dốc Lùng Chùng Phủng lại trở về bờ sông Ðà phía giữa châu Phù Yên sang châu Mai Sơn, chỗ đầu mối giao thông của ngoài vùng tự do vào khu du kích của các dân tộc Thái, Dao, Mèo bên kia sống. Rồi họ về trong những làng Mông Ðỏ hẻo lánh vùng Phìa Sa. Xa lắm rồi, thống lý không đuổi được nữa... họ nghĩ thế.
Ròng rã, ăn rau rừng, củ nâu, mộc nhĩ, vừa hết mùa mưa, tới Phìn Sa.
Hai người tới Phìn Sa, ở đấy không ai biết đấy là A Phủ, người ở nợ nhà thống lý. Người ta ngỡ đấy là hai vợ chồng trong một nhà đông anh em ở bên kia dốc Lùng Chùng Phủng, nương vỡ được ít mà miệng ăn thì nhiều, anh em, vợ chồng phải chia ra, đem nhau đi tìm ăn nơi khác.
Hai người nhận là vợ chồng. Mà thật thì A Phủ và Mỵ đã thành vợ chồng.

Sự sáng tạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều (K38.Văn.ĐHSP)

Standard

I/ DẪN NHẬP
Phạm Quỳnh đã từng nói đại ý rằng : một nước không thể không có quốc túy, Truyện Kiều là quốc túy của ta; một nước không thể không có quốc hoa, Truyện Kiều là quốc hoa của ta; một nước không thể không có quốc hồn, Truyện Kiều là quốc hồn của ta. Rõ ràng, không phải ngẫu nhiên mà Phạm Quỳnh đưa ra lời nhận xét như vậy, quả thực, Truyện Kiều đã trở thành linh hồn của cả dân tộc, mang trong nó tất cả những gì tinh túy nhất. Thật vậy, đọc Truyện Kiều, ta dường như thấy được “máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy”, khi Nguyễn Du đã hòa lòng mình vào từng câu, từng chữ trong thiên Đoạn Trường Tân Thanh. Hàng trăm năm qua, Truyện Kiều đã sống chan hòa trong đời sống dân tộc. Không riêng gì văn học Việt Nam, trên văn đàn thế giới cũng thật hiếm những tác phẩm chinh phục được đông đảo trái tim của bạn đọc như Truyện Kiều. Dẫu biết cốt truyện của Truyện Kiều được mượn từ tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, nhưng cũng cần phải hiểu rằng Nguyễn Du đã thổi hồn dân tộc vào tác phẩm của mình, tạo cho nó một hình ảnh mới, một giọng điệu mới, và một sức sống mãnh liệt chưa từng thấy. Chúng ta hãy cùng so sánh Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện để thấy rõ được sự tiếp thu và sáng tạo, cũng như những thành công mà Nguyễn Du đã đạt được.
II/ GIỚI THIỆU CHUNG
1. Nguyễn Du và Truyện Kiều
a.Nguyễn Du
Cuộc đời
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu (1765), niên hiệu Cảnh Hưng triều vua Lê Hiển Tông. Nơi sinh là phường Bích Câu, thành Thăng Long (Hà Nội). Cha là Nguyễn Nghiễm, mẹ là Trần Thị Tần. Ông là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam, được người Việt kính trọng gọi là "Đại thi hào dân tộc". Năm 1965, Nguyễn Du được Hội đồng hòa bình thế giới công nhận là danh nhân văn hóa thế giới và ra quyết định kỷ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm năm sinh của ông.
Sự nghiệp
Tác phẩm bằng chữ Hán
Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm 1959 mới được ba nhà nho là: Bùi KỷPhan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập: Thơ chữ Hán Nguyễn Du (NXB Văn hóa, 1959) chỉ gồm có 102 bài. Đến năm 1965 NXB Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài như sau:
·         Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
·         Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
·         Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.
Tác phẩm bằng chữ Nôm
Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có:
·         Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột-Tên phổ biến là Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài NhânTrung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài sắc. Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học (bộ mới) ghi: "Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn".
·         Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm.
·         Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.
·         Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.

b.Truyện Kiều
            Truyện Kiều - tên gốc là Đoạn trường tân thanh, là truyện thơ chữ Nôm theo thể lục bát của Nguyễn Du, gồm 3254 câu lục bát, dựa theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc).
            Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-1820). Lại có thuyết nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn. Ngay sau khi ra đời, Truyện Kiều được nhiều nơi khắc in và lưu hành rộng rãi. Hai bản in xưa nhất hiện còn là bản của Liễu Văn Đường (1871) và bản của Duy Minh Thị (1872), đều ở thời vua Tự Đức.
Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều-nhân vật chính trong truyện, một cô gái “sắc nước hương trời” và có tài “ cầm ký thi họa” nhưng cuộc đời lại gặp lắm truân chuyên.
Về nội dung, Truyện Kiều có hai giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Tác phẩm đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và số phận những con ngừơi bị áp bức đau khổ, đặc biệt là số phận bi kịch của người phụ nữ.
Về nghệ thuật, Truyện Kiều đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, nổi bật là ngôn ngữ và thể loại. Đến Truyện Kiều , ngôn ngữ tiếng Việt đã đạt đến đỉnh cao  của ngôn ngữ nghệ thuật ở cả ba phương diện biểu đạt, biểu cảm và thẩm mĩ; kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học, đồng thời nghệ thuật tự sự và miêu tả trong tác phẩm cũng rất đa dạng.
Ngày nay, Truyện Kiều vẫn đang được các nhà xuất bản in với số lượng lớn, được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đánh giá rất cao Truyện Kiều.Và có thể nói rằng kiệt tác Truyện Kiều có sức chinh phục khá lớn đối với nhiều thế hệ độc giả cả trong và ngoài nước.
            2. Thanh Tâm tài Nhân và Kim Vân Kiều truyện
            a.Thanh Tâm Tài Nhân
Thanh Tâm Tài Nhân tên thật là Từ Văn Trường, tức Từ Vị, ông còn có một số bút danh khác là Thiện Tri, Thanh đằng, Điền Thủy Nguyệt; là một nhà văn Trung Quốc đời nhà Thanh( khoảng thế kỷ XVII). Ông học giỏi, hiểu biết rộng nhưng lận đận chốn quan trường, bèn làm mặc khách của Hồ Tôn Hiến. Sinh thời đã có lần Thanh Tâm Tài Nhân thảo tờ biểu "Dâng hươu trắng" cho vua nên trở thành nổi tiếng.
Ngoài Kim Vân Kiều, ông còn viết bộ kịch Tứ thanh viên gồm bốn vở.
b.Kim Vân Kiều truyện
Kim Vân Kiều truyện là một trong vô vàn tiểu thuyết tài tử giai nhân cuối Minh đầu Thanh. Kim Vân Kiều truyện là một bộ tiểu thuyết chương hồicó lối kết cấu truyền thống theo kiểu văn xuôi cổ điển Trung Quốc kể lại cuộc đời của một cô gái đời Minh nổi danh về tài sắc mà chẳng may bị lưu lạc khổ sở: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Sách gồm 20 hồi, trước mỗi hồi đều có phần giới thệu, tóm lược nội dung, lời bình phẩm. Kết cấu của tác phẩm được miêu tả theo tuyến tính thời gian, trình tự diễn biến của sự kiện và quá trình hoạt động của nhân vật chính. Chủ đề của Kim Vân Kiều truyện là tình và khổ.
            3. Mối quan hệ giữa Truyện KiềuKim Vân Kiều truyện
      Như chúng ta đã biết Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nói cho đúng hơn thì Truyện Kiều có nguồn gốc từ Kim Vân Kiều truyện đời Thanh. Thế nhưng hai tác phẩm này lại có hai số phận hoàn toàn khác nhau. Nếu như Truyện Kiều của Nguyễn Du được nhiều người ưa chuộng và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau (khoảng 30 bản dịch ra 20 tiếng nước ngoài. Ngoài ra đã có những công trình nghiên cứu so sánh Truyện Kiều với một số tác phẩm của một số nền văn học dân tộc khác như văn học Nga, văn học Đức, văn học Hàn Quốc, ...). Thì Kim Vân Kiều truyện lại phải chịu một số phận bất hạnh. Cuốn sách của Thanh Tâm Tài Nhân bị vùi lấp hàng mấy thế kỉ trong văn học sử Trung Quốc. Nó thất truyền và gần như không tồn tại trong lịch sử văn học Trung Quốc.
Điều gì đã làm ra sự khác biệt, khoảng cách về giá trị rất lớn giữa hai tác phẩm ấy?
Chúng ta thấy rất rõ hai tác phẩm này có cùng một cốt truyện, cùng một hệ thống nhân vật và cả kết cấu tự sự. Thế nhưng Nguyễn Du đã đem tài năng của mình vào để thay đổi số phận của tác phẩm. Ông biến nó thành viên ngọc sáng của phương Đông, trải qua bao thế kỉ vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn học. Những cái mới trong Truyện Kiều mà Thanh Tâm Tài Nhân đã không làm được trong Kim Vân Kiều truyện của mình có phải là nguyên nhân chính của sự khác biệt?! Một bên là văn xuôi tự sự một bên là truyện thơ – thể loại khác nhau thì thông điệp nghệ thuật làm sao có thể giống nhau? Rõ ràng truyện thơ có nhiều ưu thế hơn hẳn trong việc thể hiện cảm xúc, đồng thời nó cũng dễ chạm vào trái tim bạn đọc hơn là ngôn ngữ của một cuốn tiểu thuyết. Không chỉ thế  Nguyễn Du đã đem thiên nhiên vào trong tác phẩm của mình – một thiên nhiên thực nhưng cũng có khi là thiên  nhiên của cảm xúc, tâm tưởng. Trong khi đó Kim Vân Kiều truyện hoàn toàn vắng bóng thiên nhiên. Nguyễn Du xây dựng lại các tình tiết cũng như hình tượng nhân vật của nguyên tác cho phù hợp với suy nghĩ, cảm nhận của mình. Đó là cái riêng và cũng là cái sáng tạo làm nên sự khác biệt cơ bản giữa hai tác phẩm.
Công lao của Thanh Tâm Tài Nhân không nhỏ. Không có Thanh Tâm Tài Nhân thì ắt hẳn không thể có Truyện Kiều của Nguyễn Du. Nhưng cũng lại phải nói cho công bằng, chính nhờ Truyện Kiều của Nguyễn Du ngày một nổi tiếng, vượt ra khỏi biên giới nước mình, mới là một động cơ để những học giả như ông Đồng Văn Thành cố gắng làm cho Kim Vân Kiều truyện được độc giả trong và ngoài Trung Hoa quan tâm tới lại.
III/NỘI DUNG CHÍNH
1. Bảng thống kê so sánh Đoạn Trường Tân Thanh với Kim Vân Kiều truyện
Như mọi người đều biết, Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du được sáng tác theo Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Vậy phần nào là phần sáng tạo của Nguyễn Du, phần nào là theo ý của Thanh Tâm Tài Nhân? Điều đó cho đến nay vẫn chưa giải quyết một cách cụ thể và triệt để. Sự không hoàn toàn nhất trí trong việc đánh giá Nguyễn Du do đấy mà có.
Công việc đó cần phải dựa trên sự so sánh đối chiếu hai tác phẩm để rút ra những số liệu cụ thể mới định giá được. Chỉ có làm như thế, chúng ta mới có thể tránh được những nhận định phiến diện, chủ quan.
Và đây là kết quả cụ thể:
ĐT
TT
Theo ý KVKT
Số câu do Nguyễn Du sáng tạo
Bố cục
Tư tưởng
Tả cảnh
Tả người
Nhớ người yêu
Nhớ cha mẹ
Băn khoăn
Tâm lý yêu đương
Cộng
Bỏ ý
Chuyển ý
Có ý nghĩa tôn giáo
Có tính chất tiến bộ
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
3254 câu
1313
357
171
38
23
124
196
1941
2/3 KVKT
15
20
4

Các thành phần khác: 1022 câu
Trong khi đối chiếu, tính được: Về phía Kim Vân Kiều Truyện sẽ bao gồm cả bài tựa của Thiên Hoa tăng chủ nhân, lời bình đại ý đầu mỗi hồi, nội dung của 20 hồi cùng với tất cả các bài thơ xướng họa ở mỗi hồi. Kim Vân Kiều Truyện, căn cứ vào quyển Kim Vân Kiều, Thanh Tâm Tài Nhân biên thứ, Lý Trí Trung hiệu điểm, Xuân Phong Văn nghệ xuất bản xã là tài liệu mới ấn hành trong những năm gần đây, phục vụ cho việc nghiên cứu Minh mạt Thanh sơ tiểu thuyết.
Cột 1, ghi theo thứ tự 20 hồi của Kim Vân Kiều Truyện.
Cột 2, đối chiếu với số câu được diễn ra ở Đoạn Trường Tân Thanh theo từng hồi của Kim Vân Kiều Truyện.
Các cột 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 ghi theo số câu. Đơn vị là câu.
Truyện Kiều có những trang trữ tình ưu tú nhất trong văn học nước ta, là tập thơ ái tình. Trong một xã hội phong kiến, khi quả tim của đôi lứa thanh niên luôn bị đè nén trong lễ giáo, nỗi ẩn ức của con người đã tìm được trong tập thơ Nguyễn Du đôi lời an ủi, một tia hy vọng cho luyến ái được tự do, được giải phóng và một dịp để nhận thức bao nhiêu nét tế nhị của quả tim con người qua các cuộc thử thách của tình yêu. Do đó độc giả biết ghét tất cả những trạng thái luân lý không tự nhiên đã trói buộc con người một cách vô lý, làm cho cõi lòng nghèo nàn. Truyện Kiều còn là tập thơ của thiên nhiên, dạy cho con người biết yêu thiên nhiên trong màu sắc, thanh âm, ý vị của nó. Thiên nhiên trong Truyện Kiều toàn diện: 
Cảnh thiên nhiên chân thật của đồng quê, cảnh chiều hôm, cảnh: “non xa trăng gần” khi Kiều ngồi nghe: "Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi", cảnh: "Ngọn triều non bạc trùng trùng"...Bao nhiêu âm thanh, màu sắc, bao nhiêu cảm giác của ngũ quan, bao nhiêu ý nghĩa của con người trước tạo vật...Nguyễn Du đã lựa chọn sắp xếp, có lúc vay mượn, nhưng luôn luôn chế biến để họa những bức cảnh phù hợp với tâm trạng, ăn nhịp với bước đường biến chuyển của cuộc đời. Cảnh vật thiên nhiên trong Truyện Kiều vừa là một quang cảnh “nhìn qua một tâm trạng” vừa là bức tranh trí họa cho đời sống của con người. Nhà thi sĩ trữ tình thiên tài đó, trong khi tả cảnh vật thiên nhiên với bao nhiêu màu sắc, hình thái, đã giúp cho người đọc một lối nhận thức về vũ trụ, về ngoại giới. Đồng thời nhà thi sĩ đã làm cho nhãn giới và tâm giới của độc giả thêm phong phú, thâm thúy. Cảm giác của độc giả dồi dào và sắc sảo hẳn lên với những cảm giác phức tạp, nhiều vẻ, nhiều màu, thi sĩ đã lượm nhặt lại và cung cấp một bó hoa đầy vật sắc. Tập thơ của Nguyễn Du quả đã mở rộng tầm con mắt độc giả ngày trước và cả ngày nay, cho nó chú ý đến thị dã mới mẻ, muôn màu của vật giới và tâm giới. 
Một mặt nữa, cảnh vật thiên nhiên là cụ thể. Khi thi sĩ gây cho người mối cảm tình sâu sắc đối với cảnh vật, đồng thời cũng bồi dưỡng nỗi lòng yêu quê hương đất nước. Tình yêu quê hương làng mạc đó chính là một yếu tố để bồi dưỡng tinh thần yêu nước của con người. Quan niệm phê bình văn học nhân dân vẫn chú trọng đến tinh thần yêu nước của các nhà văn hiện đại, chính vì lẽ đó. Qua Truyện Kiều, có những bức họa, bức cảnh tuyệt diệu độc giả có thể đối chiếu với thực tế Việt Nam, làm cho con người tin chắc đó là hình thái, màu sắc của đất. Độc giả không lấy gì làm lạ khi những người bôn tẩu việc nước và gặp bước đường trắc trở vẫn mở một trang Truyện Kiều, tìm lấy một lời an ủi, một lý do cho sự hy sinh với lý tưởng của mình.
Cột 10, ghi tính theo số trang của bản Kim Vân Kiều Truyện 214 trang. Số ý Nguyễn Du lược đi được tính theo dòng mà lấy tỉ lệ: Nguyễn Du lược đi 142 trang tức là đúng 2/3 quyển Kim Vân Kiều Truyện.
Cột 12, ghi tính theo từng tư tưởng cụ thể, ví dụ: “Âu đành quá kiếp nhân duyên, nhân quả dở dang, hay Túc nhân âu cũng có trời ở trong…”
Trong học thuyết Nho gia, Khổng Tử cho rằng mỗi cá nhân, sự sống- cái chết, phú quý hay nghèo hèn đều do “Thiên mệnh” quy định. Mạnh Tử nhấn mạnh thêm: không có việc gì xảy ra mà không có mệnh trời, mình nên tùy thuận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy. Là một nhà Nho uyên bác Tứ thư, Ngũ kinh, Nguyên Du đã thấm nhuần chân lí khái quát từ học thuyết của Nho gia. Ngay khi mở đầu tác phẩm, tác giả đã đưa ra nhiều khái niệm của đạo Nho:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
Cảo thơm lần giở trước đèn
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh”
Có thể thấy qua đoạn mở đầu, tác giả đã khái quát nên quy luật về mối quan hệ giữa con người với thế lực siêu hình, đó là “mệnh trời”- một trong những học thuyết cơ bản của Nho gia. Mối quan hệ này được nhắc lại ở đoạn kết của tác phẩm. Theo ông, mệnh trời là một thế lực vạn năng:
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Và trời cũng hết sức công bằng:
Có đâu thiên vị người nào
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai
Như vậy với hai đoạn thơ mở đầu và kết thúc tác phẩm, Nguyễn Du đã đi vào quỹ đạo chính thống “văn dĩ tải đạo” để làm sáng tỏ học thuyết của tiên thánh, để thuyết giải về Thần quyền. Trong trường hợp này, phụ nữ sẽ là đối tượng phú bẩm cho vẻ đẹp “hồng nhan”, đồng thời lại bị tạo hóa “đánh ghen”đày đọa số phận “trời xanh quen thói mà hồng đánh ghen”. Và qua những khái niệm của Nho gia với những quan niệm triết lí đã đúc kết  thành biểu thức, với phong cách diễn đạt có màu sắc thành ngữ, tục ngữ thường gặp trong “Truyện Kiều”, tác giả nêu lên cảm hứng có tính chất chính thống bắt nguồn từ quan niệm sáng ác của Nho gia. Đó chính là quan niệm được nọ mất kia, hơn tài kém mệnh. Cùng với việc mượn đề tài, cốt truyện như đã nói trên, Nguyễn Du một mặt thể hiện khuynh hướng chính thống trong văn học trung đại.

Tồn tại song song với nhưng khái niệm và quan niệm về mệnh trời, về những biến động vô lường của cuộc sống con người, về hình tượng nhan sắc bị vùi dập bởi tạo hóa:
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền vỡi chữ tai một vần
Nguyễn Du lại khẳng định:
Sinh rằng giải cấu là duyên
Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều
Ví dù giải kết đến điều
Thì đem vàng đá mà liều với thân.
Hay như hai câu ở đoạn cuối:
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Hòa vào màu sắc của tư tưởng Phật giáo ở những câu thơ trên là nét tư tưởng Nho giáo của Khổng Mạnh: con người bằng nỗ lực chủ quan có thể vượt lên trên số phận.
Cột 13, ghi những tư tưởng tiến bộ, ví dụ “Nhân định thắng thiên”, “Trong tay đã sẵn đồng tiền”, “Chẳng qua đồng cốt quàng xiên”…
Thúy Kiều phải tiếp khách lầu xanh, có sự thay đổi về thân phận nhưng không bao giờ thay đổi tâm hồn và tính cách. Chính và lẽ đó mà bút lực của Nguyễn Du luôn dồi dào những lời ca ngợi. Mười lăm năm trải qua biết bao nhiêu thân phận, trước mặt người yêu cũ, nàng vẫn có thể nói một cách tự hào về mình:
Chữ trinh còn một chút này
Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan.
Đến đây lại có một quan niệm mới về chữ “trinh”. Theo quan niệm Nho giáo, chữ “trinh” đáng giá ngàn vàng. Nhiều lúc quan niệm cua giai cấp phong kiến và quan niệm xã hội ấy đã chặn đứng quyền sống và quyền làm lại cuộc đời của những nạn nhân xã hội. Nhưng Nguyễn Du sớm có con đường cách tân với quan niệm mới mẻ về chữ “trinh”. Nhà thơ đã để Kim Trọng nói với Thúy Kiều trong màn đoàn viên:
Xưa nay trong đạo đàn bà
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường
Có khi biến có khi thường
Có quyền nào phải một đường chấp kinh
Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình áy vay?
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.

Vấn đề luyến ái? Kiều quả đã can đảm nghe lời gọi của trái tim và bất chấp khuôn phép lễ giáo, tôn pháp của đạo Khổng. Nhưng tinh thần đấu tranh của Kiều chưa phải ý thức tranh đấu của chủ nghĩa nữ quyền. 

Vấn đề hôn nhân? Truyện Kiều có những đoạn hùng hồn khởi tố những người đàn bà lâm vào “cái kiếp lấy chồng chung”. Nhưng tố khổ chưa thể giải quyết vấn đề nữ quyền. 

Vấn đề hạnh phúc? Cảnh đoàn viên của Kiều trong đoạn “Hậu Kim Trọng” chỉ là tia sáng dìu dịu, hắt hiu trước bàn thờ Phật, phải đâu là thức ăn của cõi người...Đối với vận mệnh có lúc Kiều phải nghiến răng nguyền rủa: 

  Chém cha cái kiếp má đào
  Cởi ra rồi lại buộc vào như không?
Các cột 11, 12, 13 cũng chỉ ghi những điều do Nguyễn Du viết ra.
Những số liệu thống kê ở bảng chí có thể đảm bảo khả năng gần đúng tối đa.
2.Những sáng tạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
a.Thể loại
Một bên là văn xuôi kể chuyện theo lối cổ của Kim Vân Kiều truyện, một bên là truyện thơ của Truyện Kiều. Hay nói rõ hơn đó chính là sự khác biệt về loại hình ngôn ngữ, một bên là văn xuôi, một bên là thơ. Nói đến văn xuôi kể chuyện theo lối cổ như Kim Vân Kiều truyện là nói đến cái ngữ nghĩa thông báo đơn nhất mà ngôn từ chứa đựng, cụ thể ở đây là nội dung của câu chuyện được kể lại. Còn nói đến thơ như Truyện Kiều thì ngoài ngữ nghĩa ra từ ngôn bản, còn phải nói đến tiết tấu, vần và nhịp điệu, nói đến khả năng ảnh hưởng của tất cả những thứ ấy. "Trong lúc trữ tình, nhà thơ đã gửi gắm vào đó cả thể nghiệm cuộc đời của mình, nên những đoạn đó chân thực tha thiết, làm cảm động lòng người".
Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là tác phẩm tiểu thuyết chương hồi thuộc thể tài văn xuôi, kết cấu theo thời gian, theo trình tự diễn biến của các sự kiện, theo quá trình hành động của các nhân vật. Nó thiên về mô tả sự kiện, đi sâu miêu tả thực tại, khắc họa chân dung nhân vật một cách cụ thể- điều mà đôi khi ta cảm thấy hơi khó chịu.
Cũng như các tiểu thuyết chương hồi khác, tác phẩm gần như không đề cập đến diễn biến tâm lý nhân vật mà chỉ có các biến cố, hành động của nhân vật. Tác phẩm lại đặc biệt coi trọng mâu thuẫn xung đột, tập trung mô tả nhiều chi tiết để tô đậm một tính cách nào đấy của nhân vật. Diện mạo nhân vật gần như chỉ là những nét chấm phá chứ không miêu tả cụ thể.Trong tác phẩm, tác giả cũng đã đưa vào những đoạn thơ, bài phú miêu tả thiên nhiên, nhưng thiên nhiên ấy lại bị tách rời khỏi cốt truyện và đôi khi lại không gắn bó gì với tâm trạng của nhân vật.
Trong khi đó, Truyện Kiều lại là một cuốn truyện thơ, một tác phẩm văn học vừa cổ điển vừa hiện đại, có sự hài hòa giữa hình thức và nội dung. Các nhân vật trong tác phẩm, các vấn đề xã hội không đợi tác giả tự thuật lại nhiều mà tự nó có thể tự hiện diện, tự bộc lộ một cách tinh vi.

b.Nguyễn Du đã lược bỏ hai phần ba cuốn truyện
Trong một bài biên khảo đăng trong tuyển tập “Nguyễn Du, Tác Giả và Tác Phẩm” do Nhà Xuất bản Giáo Dục ấn hành năm 1999 tại Việt Nam, các tác giả Nguyễn Thạch Giang, Triệu Ngọc Lan, và Lô Úy Thu đã bỏ công tìm tòi những phần trong Kim Vân Kiều truyện đã bị cụ Nguyễn Du lược bỏ. Khi so sánh Đoạn Trường Tân Thanh với Kim Vân Kiều Truyện do Xuân Phong Văn Nghệ xuất bản, các tác giả này nhận thấy cụ Nguyễn Du đã loại bỏ 142 trang trên tổng số 214 trang, tức khoảng 2/3 tác phẩm. Cụ chỉ giữ lại 72 trang và dùng các chi tiết trong số trang này để viết thành 1313 câu thơ trong tổng số 3254 câu của Đoạn Trường Tân Thanh.
Vậy những phần mà Nguyễn Du lược bỏ đó là:
◊Tất cả những bài thơ xướng họa, những bài ghi lời thề thốt:
Trong Kim Vân Kiều truyện
Chính điều này đã làm cho chúng ta bớt khó chịu bởi cái lối sính thơ của nhân vật. Nguyễn Du đã khéo léo dẫn dắt độc giả vào một lối đi khác Thanh Tâm Tài Nhân, đó chính là đi vào đường tài và đường tình của các nhân vật, mà trung tâm là Thúy Kiều; làm cho độc giả phải bất bình sâu sắc với những cái đã phũ phàng chà đạp lên cái “tài” và cái  “tình” của con người.
Chẳng hạn, ở đoạn ba chị em Thúy Kiều đi hội đạp thanh, lúc đi ngang mộ Đạm Tiên, nếu Kiều trong Truyện Kiều chỉ:
Lầm rầm khấn vái nhỏ to
Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.
Thì Kiều trong Kim Vân Kiều truyện lại vừa khấn vái, vừa lạy, lại vừa đề thơ:
Sắc hương đâu đó tá?
Thăm viếng não lòng thay!
Chăn gấm, trăng soi lạnh,
Đài gương, bụi phủ nhòa.
Đất tuy vùi ngọc ấy,
Tuyết chưa lấp danh này.
Rượu nhiều như sông đó,
Nào ai tưới chôn đây?
Hay như sau khi gặp Kim Trọng về, ở Kim Vân Kiều truyện, đang đêm nhớ nhung, suy nghĩ miên man về Kim, Thúy Kiều lại làm thơ:
Trời quang mây lặng không vương bụi,
Khác gì bình ngọc chứa lòng băng.
Nếu bạn đa tình săn sóc hỏi,
Tấm thân đau đớn biết cho chăng?
Thì hành động này ta không bắt gặp lại trong Truyện Kiều.
◊Những lời đối đáp rườm rà, không giúp ích gì cho việc phát triển tính cách nhân vật.
Như trong hồi 1 và hồi 2, những lời đối thoại qua lại của ba chị em Thúy Kiều lúc thấy mộ Đạm Tiên và khi gặp Kim Trọng đều được Nguyễn Du rút gọn hết. Cả ở những hồi sau cũng thế.
Cũng nhờ đó, bố cục của cốt truyện trong Đoạn Trường Tân Thanh rất chặt chẽ, phát triển rất tự nhiên và cân đối, không hề luộm thuộm, rườm rà.Có thể thấy rằng Nguyễn Du chỉ giữ lại những chi tiết nào gọi là đặc trưng, điển hình, ảnh hưởng hoặc làm rõ tâm lý, tính cách nhân vật.
◊Những gì gây hại đến tính cách, nhân phẩm của các nhân vật như Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải; bao gồm cả những lời lẽ dụ hàng của các thuyết khách của Hồ Tôn Hiến( quan đốc phủ phái Hoa Nhân, trung quân họ La), lời Từ Hải đáp lại tên Lợi Sinh.
Cuộc xử oán dông dài và man rợ trong Kim Vân Kiều Truyện được cụ Nguyễn Du tóm tắt qua 42 câu thơ. So sánh hai đoạn trích Kiều báo oán trong Kim Vân Kiều TruyệnĐoạn Trường Tân Thanh, ta nhận thấy những điểm nổi bật sau:
Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Thúy Kiều tha tội hoàn toàn cho Hoạn Thư. Trong Kim Vân Kiều Truyện, Kiều tha tội chết nhưng ra lệnh đánh Hoạn Thư một cách dã man.
Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Thúy Kiều không sai quân sĩ bắt mẹ Hoạn Thư đem về trị tội như trong Kim Vân Kiều Truyện.
            Cụ Nguyễn Du chỉ tả cảnh xử tội Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Hãnh, Bạc Bà, và Ưng, Khuyển một cách vắn tắt chứ không chi tiết và tàn nhẫn như trong Kim Vân Kiều Truyện. Qua ngòi bút của cụ Nguyễn Du, chúng ta cảm thấy đồng tình với Kiều khi nàng tha bổng Hoạn Thư nên không phê phán nàng nặng nề khi nàng trả thù những nhân vật khác. Trái lại, khi đọc Kim Vân Kiều Truyện, có lẽ người đọc phải chau mày và có ý niệm chán ghét Kiều trước cách trừng trị dã man, tàn bạo, thiếu nhân tính nàng áp dụng đối với kẻ thù.
Nàng Kiều trong Truyện Kiều đối với Thúc Sinh và Từ Hải vẫn nặng tình như đối với Kim Trọng, mà lẽ ra theo đúng nguyên tác Kim Vân Kiều truyện  “Thúy Kiều chỉ thực sự yêu có một mình Kim Trọng, còn đối với Thúc Sinh và Từ Hải thì chủ yếu chỉ cảm cái ơn họ chuộc mình ra khỏi lầu xanh.Nguyễn Du cũng không hề buộc chặt nhân vật Thúy Kiều vào một thứ “phẩm tiết kiên trinh” như Thanh Tâm Tài Nhân. Được Hoài Thanh coi là người “đi guốc trong ruột nhân vật”, Nguyễn Du hiểu hơn ai hết mối tình với Kim Trọng dầu sao cũng chỉ là mối tình đầu của Kiều. Với thời gian xa cách chừng ấy năm, lại trải biết bao nhiêu bầm dập, trong tâm lý Kiều ví thử vẫn cứ còn giữ guyên vẹn tình cảm với Kim Trọng như thuở nào để suốt ngày mình dằn vặt mình thì thật ít ai hiểu nổi. Nguyễn Du đúng là một ngòi bút hiện thực tâm lý, khi ông cho nàng Kiều nhớ đến Kim Trọng như nhớ đến một kỷ niệm cũ, không còn thắm nữa nhưng vẫn chưa phai: “Xót thay chút nghĩa cũ càng/Dầu lìa ngó ỷ còn vương tấc  lòng".Nguyễn Du cũng không thể buộc Thúy Kiều hờ hững với Thúc Sinh vì trong hoàn cảnh đang sống dưới địa ngục trần gian của nhà mụ Tú Bà, Thúc Sinh không chỉ là người phò nguy cứu nạn, mà còn là con người hết sức đa tình, đã hiến dâng cho nàng cả tâm hồn và của cải, cả tình yêu “đá vàng” lẫn tình yêu xác thịt: “Miệt mài trong cuộc truy hoan/Càng quen thuộc nết càng dan díu tình”. Kiều giờ đây không còn ở cái tuổi cài trâm e lệ như thuở mới yêu Kim Trọng. Nàng đã thất thân với Mã Giám Sinh rồi với Sở Khanh, lại đã lăn lóc chốn lầu xanh, mùi đời đã trải. Bắt nàng cứ thờ ơ lạnh nhạt trước một mối tình chứa chan hạnh phúc như của chàng Thúc e chỉ là giả dối nếu không là ngốc nghếch về tâm lý. Thế nhưng mối tình của Thúy Kiều đối với Thúc sinh, cũng như sau này đối với Từ Hải, vẫn khác mối tình đầu giữa nàng với Kim Trọng. Một bên e ấp, trong sáng, thuần túy tình yêu, một bên dạn dĩ, tỉnh táo, vừa là ơn nghĩa, vừa biết tính toán thiệt hơn, nên tuy có nhớ nhung: “Cầm tay dài ngắn thở than/Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời’ vẫn đinh ninh những chuyện rất thực tế: “Đôi ta chút nghĩa đèo bòng". Cũng vậy, với Từ Hải, người đã cứu mình khỏi chốn bùn nhơ lần thứ hai, lại giúp mình đền ơn trả oán phân minh, cho mình được sống những ngày hả hê nhất, mà nói Kiều lấy Từ không phải vì tình thì dễ chỉ có Thanh Tâm Tài Nhân mới nghĩ ra được. Kiều của Nguyễn Du phát triển theo xu thế tâm lý cuộc đời thực đã không thể làm như vậy. Nàng yêu Từ Hải với tấm lòng của người tri kỉ: “Khen cho con mắt tinh đời/Anh hùng đoản giữa trần ai mới già”, cũng là với cái nghĩa của người chịu ơn sâu nặng: “Thưa rằng lượng cả bao dung/Tấn Dương được thấy mây rồng có phen”. Vì thế nàng vẫn dành cho từ Hải một góc trong trái tim thương nhớ sau khi đã hồi tưởng hết cha mẹ, các em, đến người tình cũ:”Cánh hồng bay bổng tuyệt vời/ Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”. Không thể nói với những mối tình gắn bó sau này, Kiều đã tự đánh mất mình. Chính Kim Trọng là người hiểu rất rõ tâm hồn của nàng trước sau vẫn toàn vẹn: “Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường”.
Điều này cho ta thấy sự khác biệt rõ ràng giữa tư tưởng của Nguyễn Du với tư tưởng của Thanh Tâm Tài Nhân. Từ đó mà chủ đề của hai tác phẩm ngỡ là giống nhau nhưng thật ra lại khác nhau hoàn toàn.
Nếu Thanh Tâm Tài Nhân viết Kim Vân Kiều truyện chỉ vì cảm thông với thân phận chìm nổi bấp bênh, trăm đau ngàn khổ của nhân vật chính Thúy kiều- một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại bị bao “nỗi khổ nhục phũ phàng hắt hủi” và cốt chỉ để chứng minh “ Tạo hóa ghét sự hoàn toàn, hơn điều nọ tất phải kém điều kia, sinh được một phần hồng nhan thì phải chịu mười phần đày đọa, có được một chút tài tình lại phải gánh thêm mười phần nghiệp chướng”.
Thì ở Đoạn Trường Tân Thanh , Nguyễn Du dường như sâu sắc hơn nhiều. Ông đau cho cái kiếp số bèo bọt của nhân vật hay cũng chính là đau cho cái cuộc đời thực của ông?! Sóng gió cuộc đời xô cuốn phũ phàng lên cả thân người của thi sĩ tài hoa ấy. Chính vì thế “Đau đớn thay phận đàn bà. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Câu thơ nghe như xé lòng người đọc tan tác, ta nghe đâu đó cả tiếng cười gằn mỉa mai của tác giả!
Rõ ràng, cái cảm của Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là cái cảm của người ngoài, làm sao đau, sao xót bằng cái cảm của Nguyễn Du- người trong cuộc! Hỏi làm sao khi Nguyễn Du đã xây dựng một Thúy Kiều hoàn hảo đến như thế? Kiều của Nguyễn Du không bao giờ làm ta khó chịu như Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân.
Một điều khác biệt nữa là, nếu Thanh Tâm Tài Nhân khẳng định về chuyện “Tạo hóa ghét sự hoàn toàn” thì Nguyễn Du  ở một mức độ nào đấy còn hơi băn khoăn, ông đặt câu hỏi cho vấn đề này, liệu rằng có phải:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Và:
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
◊Một số nhân vật như Vệ Hoa Dương,Bộ Tân- kiểu thầy trọ của tên thầy kiện ở nông thôn, quân sư cho Thúc Sinh đối phó với Tú Bà, các thuộc tướng của Từ Hải( Lôi Phong, Sử Chiêu)… cũng các hành động và nhân vật của họ.
Cũng như trên, cuốn truyện nhờ thế mà chặt chẽ, nhẹ nhàng, không rườm rà bởi những chi tiết lôi thôi làm rối trí người đọc hoặc đôi khi nhiều quá làm người đọc không thể nào nhớ hết những nhân vật không tạo ra một dấu ấn riêng nào.
Đặc biệt nữa, ở Truyện Kiều của Nguyễn Du nếu để ý thì ta thấy rằng hầu như từ hồi này qua hồi khác nhà thơ đều dùng những câu thơ để chuyển ý làm cho văn bản hết sức chặt chẽ, người đọc dễ theo dõi và sắp xếp được môi trường cho các nhân vật xuất hiện hành động.
c.1941 câu còn lại do chính công lao sáng tạo của Nguyễn Du viết ra
Khi viết Đoạn Trường Tân Thanh, ngoài việc lược bỏ những đoạn hoặc rườm rà hoặc không cần thiết trong Kim Vân Kiều truyện, cụ Nguyễn Du đã chứng tỏ biệt tài trong việc sử dụng ngôn ngữ qua những đoạn tả cảnh, tả tình, tả tình trong cảnh, tả cảnh trong tình; cũng như đã thành công trong việc miêu tả nhân vật và tô đậm cá tính nhân vật với chỉ vài câu thơ. Thêm nữa, cụ cũng đã trang bị cho các nhân vật một đời sống nội tâm phong phú với những suy tư, những khao khát, những rung động phù hợp với con người của họ theo từng hoàn cảnh của câu chuyện. Đây là những điều Thanh Tâm Tài Nhân đã thiếu xót khi sáng tác Kim Vân Kiều Truyện.
Chính tài nghệ của cụ Nguyễn Du đã cắt nghĩa được tại sao hai tác phẩm kể cùng một câu chuyện lại có hai số phận khác nhau. Một bên nhanh chóng chìm vào quên lãng ngay chính trên quê hương của nhân vật trong truyện, một đằng vừa xuất hiện đã được quần chúng mở rộng vòng tay đón nhận và trở thành tác phẩm bất hủ của dân tộc và cả thế giới.
Từ sự thực đó nói lên một cách rõ ràng: Truyện Kiều không phải là một tác phẩm dịch. Dịch và viết bao giờ cũng là hai chuyện khác nhau. Điều đó có lý do của nó. Bởi vì ngôn ngữ chỉ là công cụ của nhà văn, nhà thơ dùng để diễn đạt một nội dung nào đấy qua một số hình tượng nào đấy trong một tác phẩm văn học. Cái vĩ đại, cái chủ yếu của một tác phẩm văn học chính là nội dung cùng với cả hệ thống hình tượng của nó được diễn tả, được xây dựng nên bằng một ngôn ngữ tương ứng. Không có cái nội dung được diễn tả qua hệ thống hình tượng ấy thì ngôn ngữ - hay nói một cách nôm na, thì văn có bóng bẩy đến đâu cũng không sao gọi là hay được.
d.Nguyễn Du đã rất tài tình khi sử dụng tất cả những gì gần gũi nhất để xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật đẹp đẽ.
Nguyễn Du đã dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và sáng tạo ra một thi phẩm lớn với một nội dung, một hệ thống hình tượng riêng của mình. Nguyễn Du đã có biệt tài trong việc sử dụng ngôn ngữ kể chuyện của tác giả. Nhờ sử dụng phương tiện này mà chúng ta thấy được thái độ của Nguyễn Du đối với nhân vật.
Thiên nhiên, cuộc sống nội tâm của con người (nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, băn khoăn về cuộc đời, rạo rực yêu đương và cả đến những tâm lý ghen tuông)… Tất cả những cái đó được diễn tả bằng một ngôn ngữ thơ ca điêu luyện hầu như thâu góp bằng hết mọi tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc.
Thiên nhiên trong Kim Vân Kiều truyện như đã trình bày ở trên hầu như vắng vẻ, chỉ thỉnh thoảng ta mới bắt gặp, song những lần thỉnh thoảng đó lại thấy không ăn nhập gì mấy với tâm trạng, tính cách của nhân vật. Mọi cảnh vật đều hiện lên rất mờ nhạt, lại mang phần rời rạc, loáng thoáng qua một số bài thơ của Kiều hay qua lời kể sơ lược của Thanh Tâm Tài Nhân. Còn trong Truyện Kiều, thiên nhiên đi về khắp lượt. Thiên nhiên được Nguyễn Du miêu tả gắn liền với tâm trạng, số phận nhân vật. Qua thiên nhiên, người đọc có thể lờ mờ nhận ra được những suy nghĩ, lo lắng, hay tâm sự của nhân vật trữ tình. Chẳng hạn, cũng là mùa thu, nhưng mỗi lần xuất hiện, ngòi bút của Nguyễn Du lại mang cho nó mỗi sắc áo khác nhau:
Long lanh đáy nước in trời 
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.

Người lên ngựa, kẻ chia bào, 
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.

Giậu thu vừa nảy chồi sương, 
Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi.

Đêm thu gió lọt song đào, 
Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời.
Đối với các hiện tượng miêu tả, thấy được cuộc sống nội tâm của nhân vật. Ở Kim Vân Kiều Truyện, ngôn ngữ kể chuyện của tác giả không được sử dụng chặt chẽ và vừa phải, cho nên cuộc sống nội tâm của nhân vật cũng nghèo nàn vì không có một cuộc sống thực, một cuộc sống nghệ thuật…
Đọc Kim Vân Kiều truyện, có thể dễ dàng nhận thấy thế mạnh của Thanh Tâm Tài Nhân trong việc tạo dựng cốt truyện hấp dẫn với hệ thống chi tiết phong phú, có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn. Có lẽ đây cũng là lí do khiến Nguyễn Du mượn tác phẩm này làm cái bình để rót vào đó những suy ngẫm, trăn trở, khát khao, ước vọng... của riêng mình. 
Khi thực hiện mục đích đó, Nguyễn Du đã tìm đến một thế mạnh khác – sức mạnh của ngôn ngữ thơ, sự giàu có của tiếng mẹ đẻ. Ông lược bỏ cái thô nhám của ngôn ngữ văn xuôi, dùng khả năng biểu đạt, tính biểu cảm cao độ của từ ngữ thay cho nhiều chi tiết. Chẳng hạn, Thuý Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân lúc bắt đầu trao duyên đã vừa khóc vừa nói (có Thuý Vân trước mặt): “Chàng Kim! Chàng Kim! Trước đây thiếp cố giữ vẹn tấm thân, không chiều ý chàng là sợ trong đêm hợp cẩn, không lấy gì làm tin. Nếu sớm biết có biến ngày nay như thế này thì lúc ấy còn giữ làm chi”.

Thật khó hình dung một thiếu nữ được nuôi dạy trong nền nếp nho gia lại dễ dàng nói thẳng một vấn đề như thế trước mặt người khác, dù đó là em ruột. Mặt khác, có thật hợp lí không khi để cho những suy nghĩ ấy xuất hiện ngay khi Kiều chưa bán mình xong, chưa phải gánh chịu cái cảnh “Một cơn mưa gió nặng nề/ Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương”? 

Nguyễn Du đã đưa câu nói kia khỏi cảnh trao duyên và chuyển thành ý nghĩ của Thuý Kiều trong tâm trạng nhục nhã, ê chề, phẫn uất sau khi thất thân với Mã Giám Sinh và diễn đạt bằng những từ ngữ hàm súc, tế nhị: “Biết thân đến bước lạc loài/ Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”...
Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân còn có tên là Song Kỳ Mộng, khi mới ra đời nó đã bị quên đi, ít ai nhắc đến. Còn Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, gần hai trăm năm nay chiếm một vị trí rực rỡ trong lịch sử văn học Việt Nam. Điều đó thì đã rõ.
Tại sao Kim Vân Kiều TruyệnĐoạn Trường Tân Thanh có hai số phận khác nhau ấy? Điều đó không thể chỉ giải thích vì ngôn ngữ, vì văn chương họ Nguyễn hay hơn văn chương Thanh Tâm Tài Nhân; hay vì Đoạn Trường Tân Thanh là một bài thơ dài, còn Kim Vân Kiều Truyện là cuốn truyện văn xuôi. Nó chỉ có thể giải thích được bắng cái nội dung với những hình tượng được xây dựng của tác phẩm, hay nói một cách khác, nó chỉ có thể giải thích được bằng sự sáng tạo của Nguyễn Du trên cơ sở nhào nặn lại cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mà xây dựng những bức tranh sống của xã hội có một nội dung phong phú, sâu sắc.
3. Ý nghĩa sự sáng tạo của Nguyễn Du
   Tuy được nhen nhóm từ Kim Vân Kiều của Thanh Tâm tài nhân, nhưng Truyện Kiều của Nguyễn Du đã tách khỏi nguyên tác ban đầu mà lựa chọn cho mình một con đường đi riêng. Nguyễn Du chỉ dựa vào cái sườn của cốt truyện văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân mà sang tạo ra hẳn một thi phẩm của riêng mình.Cần phải nói rõ ràng rằng, trong lao động nghệ thuật thì sự sáng tạo của người nghệ sĩ là điều quan trọng hơn cả, không chỉ sáng tạo ở số liệu mà cái quan trọng hơn là cách nhào nặn dữ liệu để tạo nên những hình tượng nghệ thuật, những nhân vật điển hình có cá tính và có ý nghĩa khái quát.
Hay như nh à phê bình v ăn học Hoài Thanh đã  đánh giá trong quyển Phê bình và tiểu luận (tập 1) rằng : “Nguyễn Du đã biến một quyển truyện tuy cũng có giá trị nhưng chưa phải là ưu tú thành một tác phẩm vô song trong văn học Việt Nam và có thể so sánh với vô luận tác phẩm ưu tú nào trong văn học thế giới.”
IV.KẾT LUẬN
Trải qua hàng trăm năm, với biết bao thăng trầm của cuộc sống, Truyện Kiều vẫn nóng bỏng hơi thở của nó, vẫn trường tồn sức sống trong lòng mọi thế hệ độc giả. Đóng góp của Thanh Tâm Tài Nhân là không nhỏ, nhưng chúng ta cũng không thể không thừa nhận rằng chính Nguyễn Du mới là người mang đến thành công rực rỡ cho Truyện Kiều, nâng Truyện Kiều lên trở thành tiếng nói của dân tộc. “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn,…” (Phạm Quỳnh). Và trong những đợt sóng mạnh mẽ của cuộc đời, ta vẫn nghe văng vẳng những câu thơ bộc trào niềm tự hào của đất nước:
“Hỡi sông Hồng tiếng nói bốn nghìn năm
Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn…”
Đất nước ta bay lên cùng với những vần thơ Truyện Kiều.
Xin được mượn lời nhà nghiên cứu Trần Đình Sử để tạm khép lại bài tiểu luận này: “Tác động nhiều mặt của Truyện Kiều đối với sáng tác đương thời và đời sau, đối với đời sống văn học, làm nảy sinh các hình thức sáng tác phê bình giải trí tao nhã, cũng như tạo hình một đời sống lịch sử của riêng nó suốt gần 200 năm và còn dài lâu nữa, đã chứng tỏ tầm vóc vĩ đại của nó có thể sánh ngang với bất kỳ tác phẩm vĩ đại nào của nhân loại.”

                ۞HẾT۞